Gia đình và Phụ nữ [Đức: Familie und Frauen; Anh: family and women]
Familie [gia đình] xuất hiện trong thế kỷ XVI từ chữ La-tinh familia, vốn sinh ra từ chữ famulus (“người hầu”), và vì thế có nghĩa nguyên thủy là “những người hầu trong nhà” của ai đó, nhưng đã đi đến chỗ chỉ toàn bộ hộ gia đình, gồm cả người tự do và người nô lệ, đặt dưới sự giám hộ của pater familias [người chủ của gia đình]. Vào thời của Hegel, cũng như ngày nay, Familie có nghĩa (1) một “cộng đồng gồm cha mẹ và con cái”, nhưng cũng có nghĩa (2) một “nhóm họ hàng” rộng hon, có quan hệ huyết thống. Nhưng đối với Hegel nghĩa có liên quan là nghĩa (1).
Hegel cho rằng gia đình là lĩnh vực của phụ nữ, và rằng phụ nữ phải bị loại trừ khỏi các hoạt động gắn với XÃ HỘI DÂN sự và NHÀ NƯỚC. Quan niệm này được hầu hết các triết gia trong thời đại Hegel và trước ông chia sẻ. Ngoại lệ quan trọng nhất là Plato, người khẳng định, trong đối thoại Cộng hòa, rằng gia đình phải bị xóa bỏ (ít nhất là đối với tầng lớp những chiến binh hay người cai trị) và rằng phụ nữ nên nhận được cùng sự GIÁO DỤC giống như nam giới và được nâng lên địa vị của chiến binh, nếu họ chứng tỏ là thích hợp. (Ông không tin rằng họ chắc chắn là thích hợp giống như nam giới). Trong LSTH, Hegel bàn về việc xóa bỏ gia đình, nhưng bỏ qua các quan điểm của Plato về phụ nữ. Các nhà Plato-
mới có cả vài phụ nữ trong số các môn đồ của họ, đặc biệt là Hypatia (con gái của nhà toán học Theon), vốn đã giảng triết học tại Alexandria và tương truyền là bị một đám đông Kitô giáo xé xác. (Bà là chủ đề cuốn tiểu thuyết Hypatia của Charles Kingsley). Hegel không nhắc đến Hypatia, điều không đáng ngạc nhiên, vì ta không biết gì về các học thuyết của riêng bà. Người phụ nữ duy nhất mà ông nhắc đến (trong MH) như là đã mang lại một đóng góp văn hóa có ý nghĩa là nữ thi sĩ trữ tình Sappho.
Đại Cách mạng Pháp tạo ra một mối quan tâm đến các QUYỂN của phụ nữ. Nhà cách mạng Condorcet đã viết một luận văn về De radmission des femmes au droit de cité (1790). Nhưng nhà tự do chủ nghĩa là Krug, giống như Hegel, gắn phụ nữ với tình cảm, xúc cảm và bản năng, hơn là với lý tính hay hiểu biết, và do đó xem vị trí của họ là ở trong nhà, nuôi nấng và dạy dỗ con cái. Phụ nữ phải có các quyền con người (Menschenrechte), nhưng không có các quyền dân sự hay quyền công dân (Bürgerrechte). Khác với Plato, Krug nhắc đến ba người bất đồng ý kiến đương thời: (1) Mary Wollstonecraft, Vindication of the Rights of Woman (1792, được dịch sang tiếng Đức năm 1793 - 4); (2) G. E c. Weissenborn, vốn đã dịch cuốn trên của Mary Wollstonecraft và viết Letters on the Civil Independence of Women (1806); và (3) Wm. Thomson, Appeal of one half of the human race, Women, against the pretentions of the other half, Men, to retain them in political, and thence in civil and domestic slavery (1825). Hegel không nhắc đến cuốn nào trong số chúng. Những tác phẩm khác được Krug liệt kê, kể cả cuốn The Emancipation of Woman, considered from the standpoint of Psychology (1836) của người theo phái Hegel là Karl Rosenkranz, xuất hiện sau khi Hegel mất.
Phụ nữ đã giành được mức độ lớn về giải phóng xã hội và giới tính ở nước Đức cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, đặc biệt trong trường phái lãng mạn. (Cuốn Gespräch über die Poesie [Trò chuyện về thi ca] của E Schlegel (1799 - 1800) cho thấy điều gì đó về vai trò trí tuệ của phụ nữ trong trường phái này). Nhưng các nhà lãng mạn nhấn mạnh vào tình yêu hơn là các quyền dân sự, và tin rằng hôn nhân mất đi ý nghĩa của nó khi không còn tình yêu. Quan niệm này được thể hiện trong tiểu thuyết Lucinde (1799) của E Schlegel và cuốn Vertraute Briefe über die Lucỉnde [Những bức thư riêng về Lucinde] (1800), được viết để bảo vệ cho Schlegel (cf. HTHTT, §164A.). Trong THTT, Hegel chịu ảnh hưởng bởi quan niệm của các nhà lãng mạn về tình yêu và ý nghĩa toàn vũ trụ mà họ quy cho tình yêu. Nhưng các tác phẩm về sau của ông đặt tình yêu bên dưới lý tính: hôn nhân khởi đầu từ tình yêu, nhưng như là một định chế xã hội, hợp lý tính nên nó vượt qua và tồn tại lâu hon những bất tất của dam mê (THPQ, §§162 và tiếp).
Hegel xem xét phụ nữ và gia đình trong hai văn cảnh chính:
1. HTHTT, VI.A.a, dưới đề mục TINH THẦN, xem xét ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC của người Hy Lạp như là được phản ánh trong bi kịch Hy Lạp, nhất là trong vở kịch ưa thích của Hegel, đó là vở Antigone của Sophocle. Xã hội Hy Lạp, theo quan niệm của Hegel, bị chi phối bởi hai loại luật:
(a) LUẬT bất thành văn của các thần linh “cõi âm” hay luật trời, vốn “không phải là luật của hôm qua hay hôm nay, nhưng là mãi mãi, dù ta không biết nó đến từ đâu” (Hegel thường trích dẫn lời của Antigone). Đây là luật thiêng liêng của gia đình, gắn kết người sống với người chết. Nó quy định rằng phải “tinh thần hóa” cái CHẾT bằng những nghi lễ chôn cất thích hợp. Việc tuân thủ luật này, và việc giữ an toàn cho gia đình nói chung, được quy cho phụ nữ. (Trong thực tế, trong những người Athen của Sophocle, việc chôn cất người chết, đặc biệt là chết vì chiến tranh, không đon giản là một mối quan tâm riêng tư, gia đình).
(b) Luật công khai của con người hay luật của nhà nước, được chuẩn thuận bởi những vị thần Olympia. Luật này được quy định cho nam giới, trong trường hợp này, cho người cai trị, tức Creon, vốn đã cấm Antigone chôn cất người anh trai phiến loạn, tức Polyneikes.
Không luật nào cao hon luật nào. Do đó nảy sinh xung đột bi kịch.
Cả Hegel lẫn khán giả Hy Lạp của Sophocle đều không xem đây là một xung đột giữa nhà nước và CÁ NHÂN. Theo quan niệm của Hegel, nó chính là một xung đột giữa các lực lượng, được đại diện bằng các cá nhân: chủ nghĩa cá nhân chỉ xuất hiện muộn hon nhiều, phần nào như là kết quả của các xung đột như vậy. Lý giải của ông về vở kịch này gây tranh cãi, nhưng nó đáng ca ngợi vì việc xem xét nghiêm túc vị thế của Creon, cũng như của Antigone. (Creon không đon giản là một bạo chúa, nhưng là một chính khách đang nỗ lực vãn hồi trật tự mà đời sống văn minh phụ thuộc vào đó).
2. Trong THPQ §§158-81, gia đình được xem là giai đoạn đầu tiên, trực tiếp của đời sống đạo đức, vốn sẽ VƯỢT BỎ các đòi hỏi thô Sổ, cảm tính trong định chế hôn nhân và chuẩn bị cho cá nhân tham gia vào đời sống dân sự và nhà nước. Gia đình là lĩnh vực của phụ nữ, “có vận mệnh mang tính bản thể của mình ở trong gia đình, và tâm thế đạo đức của người phụ nữ là sự hiếu nghĩa” (§166).
Quan niệm của Hegel về mối quan hệ chồng - vợ đôi khi được gắn với nghiên cứu của ông về quan hệ giữa chủ và nô trong HTHTT, IV.A., ngụ ý rằng Hegel xem vợ là nô lệ hay người hầu của chồng, và có lẽ rằng người vự, giống như nô lệ, có thể tìm thấy hạnh phúc và tự do trong việc phục vụ chồng. Sự liên tưởng này, cùng với bất kỳ kết luận nào được rút ra từ nó, đều không chính xác:
(1) Công việc phục dịch trong gia đình là rất rộng trong thời đại của Hegel, và phụ nữ thuộc tầng lớp của Hegel không bị đòi hỏi phải làm việc trong nhà: “Antigone không tự mình giặt giũ” (w. H. Walsh).
(2) Sự khác biệt của quan hệ chồng - vợ với mối quan hệ giữa ông chủ - người hầu truy nguyên đến tận Aristoteles; ông xem sự “cai trị” của người chồng trên người vợ là giống sự cai trị của một người công dân trên các đồng bào của anh ta, và vì thế hoàn toàn khác với sự cai trị “chuyên chế’ của chủ nô trên nô lệ. Không có bằng chứng rằng Hegel chuẩn thuận một sự từ bỏ hoàn toàn khỏi truyền thống này.
(3) Tiếng Đức, giống tiếng Hy Lạp và La-tinh, có hai từ cho chữ “man” trong tiếng Anh [người/đàn ông]: Mensch, vốn áp dụng vào tất cả mọi người, và Mann, vừa có nghĩa “nam giới trưởng thành” lẫn “người chồng”. Nhưng tiếng Đức cho chữ “Ông, Ngài, quý Ngài”, là chữ Herr, cũng có nghĩa là “chúa công, ông chủ”. Nhưng việc Ông (Herr) Hegel cũng là ông chủ (Herr) của gia đình không dẫn đến việc ông là ông chủ của Bà Hegel. Chủ/chúa công của một điền trang không sai khiến vợ của mình. Địa vị của ông ấy phản chiếu nổi bà vợ và bà vợ là bà chủ của điền trang. Herr, giống như nhiều chỗ khác, có vài sự tưong phản: với tư cách là “ông chủ”, nó tưong phản với Knecht hay Diener (“nô lệ, người hầu”); với tư cách là “Ông”, nó tương phản với Frau (“Bà”, nhưng cũng có nghĩa là “phụ nữ, người vợ”); và với tư cách là “Quý Ông”, nó tương ứng với Dame đáng trọng tương đương (“Quý Bà”).
(4) Antigone, người phụ nữ lý tưởng của Hegel, không phải là nô lệ hay người hầu của ai cả. Hegel quen biết một vài phụ nữ có trí tuệ và tích cực về mặt xã hội (kể cả nữ tiểu thuyết gia là Caroline Paulus), nhưng ông có lẽ sẽ không ủng hộ một Antigone hiện đại, vì tin rằng hành xử như vậy (giống hành vi có thể so sánh được với nam giới) là thích hợp với thời cổ đại, thời đại anh hùng, nhưng không thích hợp với nhà nước tư sản hiện đại.
A. w. Wood lập luận có lý rằng việc loại bỏ phụ nữ (và nông dân) khỏi đời sống công cộng là một triệu chứng của sự xung đột giữa ba ý tưởng được Hegel tán đồng:
(1) Đời sống xã hội đòi hỏi BẢN THỂ cũng như TÍNH CHỦ THỂ và sự PHẢN TƯ. Nhưng các nguyên tắc ấy có thể được hòa giải chỉ khi chúng được dành cho những người khác nhau, lần lượt là cho phụ nữ và nam giới.
(2) Trong thế giới hiện đại, ta không thể hiện thực hóa hoàn toàn bản tính con người của ta nếu không có Tự DO chủ quan, tức nếu không có việc trở thành một NHÂN THÂN và một CHỦ THỂ trong xã hội dân sự.
(3) Tất cả các cá nhân con người đều là các nhân thân và các chủ thể (Hegel’s Ethical Thought [Tư tưởng đạo đức của Hegel], tr. 245f).
Wood đề xuất rằng, trong khi nguyên tắc bản thể (“nền tảng của cái đạo đức trong tình cảm, tâm thế, và các quan hệ cá nhân”) và nguyên tắc phản tư đều là thiết yếu với lý thuyết của Hegel, (1) có thể được điều chỉnh để cho sự hòa giải của chúng có thể được thực hiện không chỉ bằng cách quy những tính chất ấy cho các nhóm khác nhau, chẳng hạn cho các giới tính, mà còn dễ chấp nhận hơn bằng sự hội nhập của chúng “bên trong mỗi nhân cách con người” (tr. 246). Theo Wood, điều này có thể khó khăn trong thực hành, nhưng khả hữu về mặt nguyên tắc, vì ai ai cũng không ngừng có tính phản tư và tính chủ thể. Triết gia và chính trị gia không những sinh ra từ bản thể khi còn là một đứa trẻ và, theo Hegel,
quay trở lại nó trong cái CHẾT, họ còn thường quay trở lại bản thể trong buổi chiều xế bóng. Do đó thật khó để thấy tại sao người ta lại chỉ duy nhất cần đến tính bản thể mà thôi.
Trần Thị Ngân Hà dịch