Khoa học và Hệ thống [Đức: Wissenschaft und System; Anh: science and system]
Wissenschaft, từ chữ Wissen (“biết”, “TRI THỨC”), ban đầu có nghĩa là “kiến thức/sự hiểu biết”, nhưng từ thế kỷ XVI và XVII được sử dụng cho từ scientia của La-tinh, “(một) khoa học, một khối tri thức được tổ chức và cố kết với nhau; hoạt động để sở đắc kiến thức như vậy”. Từ này áp dụng cho các khoa học tự nhiên (Naturwissenschaften), nhưng “khoa học” không nhất thiết chỉ gắn liền với khoa học tự nhiên và các phương pháp của chúng. Vậy nên ngày nay nó được áp dụng rộng hơn nhiều: chẳng hạn, nghiên cứu có hệ thống về NGHỆ THUẬT, TÔN GIÁO, LỊCH SỬ, đạo đức học, V.V., đều là Wissenschaft. (Chữ Geisteswissenschaft đến sau Hegel, và là một chuyển ngữ của chữ “moral science” (“khoa học tinh thẩn”) của J. s. Mill). Do đó, thật tự nhiên khi ta xem triết học, khi có tính hệ thống, cũng là một Wissenschaft.
System đến từ chữ systẽma trong tiếng Hy Lạp (“một tổng thể được khớp nối gồm nhiều bộ phận”), bắt nguồn lần lượt từ chữ synistanai (“lắp ráp vào với nhau, kết hợp”), rồi chữ sun, “cùng với, với nhau”), và histanai (“đặt, đế’). Wolff định nghĩa nó là “một tập hợp của các chân lý được kết nối với nhau và với các nguyên lý của chúng”. Kant nhìn System một cách hữu cơ hơn nhiều, và gắn nó một cách chặt chẽ với Wissenschaft. (Một “nghệ thuật”, Kunst, chẳng hạn như hóa học, cũng có thể có tính hệ thống, theo Kant, nhưng nó có tính thực hành, trong khi một Wissenschaft lại có tính lý thuyết). Đối với Kant, System là “sự thống nhất của nhiều nhận thức đa tạp dưới một Ý NIỆM. Ý niệm này là khái niệm của lý tính về hình thức của cái toàn bộ, trong chừng mực khái niệm này không chỉ xác định một cách tiên nghiệm phạm vi của cái đa tạp mà còn xác định vị trí cho những bộ phận trong toàn hệ thống” (PPLTTT A 832, B 860). Một hệ thống được chi phối bởi một MỤC ĐÍCH có sẵn trong khái niệm của nó, và là một toàn bộ được khớp nối hữu cơ, chứ không phải một tổ hợp hỗn độn của các bộ phận được liên kết bề ngoài. Các bộ phận không thể được thêm vào hay bớt đi mà không làm hư hại hệ thống này, nhưng nó có thể phát triển một cách hữu cơ, giống như một sinh vật.
Hegel chia sẻ quan niệm này về hệ thống và sự liên kết của nó với Wissenschaft. Từ những năm ở Jena, ông đã cho rằng triết học phải mang tính hệ thống và tính khoa học, mặc dù ông phê phán chủ nghĩa hình thức (Formalismus), tức sự áp dụng các lược đồ không tương thích, giả tạo và trừu tượng cho chất liệu thường nghiệm (xem HTHTT, Lời Tựa), và đối lập với các hệ thống, chẳng hạn như hệ thống của Spinoza, xuất phát từ các ĐỊNH NGHĨA và các tiên đề được tiền giả định từ đầu. Trong BKTI §14, ông đưa ra hai lý do tại sao “một triết học mà không có hệ thống thì hoàn toàn không khoa học”:
1. Đối tượng của triết học, ý niệm hay cái TUYỆT ĐỐI, tự hình thành một hệ thống: “CHÂN LÝ là cụ THỂ; nó tự triển khai ở trong chính mình, tập hợp và giữ vững chính mình trong sự thống nhất” (BKTI, §14). Để đánh giá đúng nó, triết học phải phản ánh cấu trúc của nó. (Đối với Hegel, một hệ thống - không như gốc từ của nó gợi ra - không phải do triết gia “kết hợp lại với nhau”: triết gia chỉ phơi bày những mối tương liên bên trong nó, và chỉ kết hợp lại với nhau những gì đã bị phân ly bởi các nhà tư tưởng trước đó hay bởi VĂN HÓA).
2. Một hệ thống khoa học đảm bảo rằng điều mà ta chọn để nghiên cứu và những yêu sách của ta về nó biểu hiện nhiều hơn những gì thuộc về khí chất cá nhân: “Một nội dung chỉ có được sự biện minh như là một mô-men của cái toàn bộ, còn ngoài điều đó ra thì nó chỉ là một tiền giả định không có cơ sở hay một sự xác tín chủ quan mà thôi” (BKTI, §14). Vì thế, Hegel bác bỏ quan niệm của Fichte: “Loại triết học mà ta chọn phụ thuộc vào loại người mà ta là; vì một hệ thống mang tính triết học không phải là một món đồ gỗ chết cứng mà ta có thể chấp nhận hay từ chối theo ý muốn; nó được kích hoạt bởi linh hồn cá nhân người có nó” (Dãn Nhập thứ nhất cho HTKH). Theo Hegel, hệ thống và khoa học loại trừ những yếu tố cá nhân như vậy.
Khí chất cá nhân trong việc lựa chọn một hệ thống cũng bị loại trừ bởi sự việc là, theo quan điểm Hegel, hệ thống TRIẾT HỌC không phải là một trong nhiều hệ thống để ta chọn lựa: một hệ thống không phải “là một triết học có một “nguyên tắc bị hạn chế, tách biệt với các nguyên tắc khác”; trái lại, hệ thống là nguyên tắc của triết học đúng thật, chứa đựng mọi nguyên tắc đặc thù ở bên trong nó” (BKTI, §14). (Một số thời đại có nhiều triết học khác nhau, thể hiện các nguyên tắc khác nhau - chẳng hạn thuyết Khắc kỷ, thuyết Epicur và thuyết HOÀI NGHI ở Hy Lạp thời sau Aristoteles - nhưng một tình huống như thế là không thỏa mãn về mặt triết học, và phải được giải quyết bởi một triết học kết hợp được tất cả mọi nguyên tắc ấy).
Hegel thường nói về triết học, nhất là triết học của riêng ông, như là “(bản thân) khoa học” (“die” Wissenschaft), dường như muốn ám chỉ rằng chỉ có một khoa học. Lý do cho điều này là: trong chừng mực triết học của Hegel bao gồm mọi nguyên tắc triết học đặc thù, nó là triết học xét như là triết học, chứ không phải là một triết học nào đó. Nhưng triết học cũng bao trùm các khoa học khác trong chừng mực chúng đúng là các khoa học, chứ không đơn giản là những đống thông tin (chẳng hạn, ngữ văn học), đặt cơ sở trên sự TÙY TIỆN (chẳng hạn như khoa huy hiệu học), hay mang tính thực định, tương phản với tính thuần lý trong chủ đề của chúng (chẳng hạn, hệ thống thuế), trong hình thức của chúng (chẳng hạn, các khoa học có tính thường nghiệm nhất như hiện tại) hay trong phương cách nhận thức của chúng (chẳng hạn, viện đến TÌNH CẢM, quyền uy, V.V.). Vì một khoa học đúng nghĩa tận dụng các QUY ĐỊNH-tư duy, nhưng các quy định tư duy là HỮU HẠN, nên mặc nhiên vượt khỏi lĩnh vực của môn khoa học ấy và quá độ sang lĩnh vực cao hơn, tức, sang môn khoa học khác. Do đó khi, chẳng hạn, vật lý học thực nghiệm và lịch sử thanh lọc thích đáng các khái niệm của chúng, chúng sẽ “phản ánh khái niệm”, và đứng vào vị trí là các bộ phận của một khoa học duy nhất. Chỉ các khoa học giả hiệu hay các phương diện có tính thực định quá mức mới nằm bên ngoài khoa học này. Nhưng sở dĩ như thế là vì chúng không phải là khoa học đúng nghĩa: một khoa học đúng nghĩa không thể tách biệt với các khoa học khác (BKTI, §16).
Khoa học duy nhất này, Hegel lập luận, sẽ hình thành một vòng tròn, và mỗi bộ môn khoa học đặc thù mà nó chứa đựng sẽ hình thành một vòng tròn, vì bản thân vòng tròn này cũng là cái TOÀN BỘ, “phá vỡ rào cản của yếu tố của nó và đặt cơ sở cho phạm vi tiếp theo”. Vậy nên khoa học hình thành một “vòng tròn của những vòng tròn” (BKTI, §15). Các phạm vi chính là Lô-gíc học, triết học về Tự NHIÊN và triết học về TINH THẨN, còn các khoa học riêng lẻ sẽ có vị trí của chúng bên trong các phạm vi này. (BKT không tự cho là trình bày trọn vẹn các khoa học đặc thù, mà chỉ trình bày những xuất phát điểm và các khái niệm nền tảng). Cấu trúc có tính vòng tròn của khoa học, tương phản với các khoa học đặc thù và các hệ thống triết học trước đó, sẽ không gặp phải vấn đề về nơi bắt đầu: về nguyên tắc ta có thể bắt đầu ở bất kỳ điểm nào, ngay khi ta quyết định làm triết học, mặc dù một số điểm có thể thích hợp hơn cho một người mới học hơn những điểm khác (BKTI, §17).
Một vài niềm tin làm nền tảng cho động lực hướng tới hệ thống của Hegel: thế giới xét như một toàn bộ tạo nên một hệ thống khả niệm duy nhất, và công việc của ta là nhận diện và phản ánh; rằng các đề mục và các khối tri thức, vì chúng chia sẻ một khuôn khổ thuần lý chung, phải có quan hệ với nhau một cách dễ hiểu; rằng các phân mảnh của một hệ thống là hoàn toàn không thể hiểu được trong sự cô lập với nhau (“Cái đúng thật là cái toàn bộ”: HTHTT, Lời Tựa); và rằng chỉ duy nhất một hệ thống trong kế hoạch của ông mới có thể an toàn về mặt nhận thức luận.
Thời đại của Hegel là thời đại của các hệ thống triết học, vậy nên ông không giải đáp thỏa đáng câu hỏi: Tại sao triết học phải mang tính hệ thống hay tính khoa học? Ông đã biết các tác giả trình bày các tư tưởng của họ trong một hình thức không hệ thống, mà một số trong đó được ông ngưỡng mộ (chẳng hạn như Diderot, Lichtenberg), và biết về những người phê phán hệ thống chẳng hạn như trường phái LÃNG MẠN với E Schlegel: “Đối với tinh thần thì có một hệ thống hay không có hệ thống nào cũng tai họa như nhau. Đơn giản là phải kết hợp cả hai” (Athenaeum Fragments). Nhưng ông lại dành phần chủ yếu trong LSTH cho các triết gia có một hệ thống (chẳng hạn như Aristoteles), hay có thể được xem là có (chẳng hạn như Plato). Hai nhà phê phán lớn nhất đối với Hegel, đó là Nietzsche và Kierkegaard, cũng là những nhà phê phán đối với hệ thống và khoa học. (Kierkegaard thường nói đến trường phái Hegel như là “hệ thống”, và cuốn Philosophical Fragments và Concluding Unscientific Postscript nói ngay đến việc chống trường phái Hegel ở ngay nhan đề). Sự phản đối của họ, và người khác, là như sau:
(1) Thế giới là quá phức hợp, và tri thức của ta về nó bây giờ quá rộng lớn, để được chứa trong một hệ thống.
(2) Một hệ thống bị giới hạn và đang hạn định: nó sẽ khép kín tinh thần của ta trước những lựa chọn và những phát hiện mới, vốn không thể thích nghi trong hệ thống (Jaspers).
(3) Một hệ thống là mang tính nhận thức và tính hồi cố hon là có tính thực hành và dự báo: nó không thể đáp ứng cho các lựa chọn của con người trong cuộc sống và HÀNH ĐỘNG (Kierkegaard).
(4) Một hệ thống kỳ cùng là không có cơ sở và về cơ bản thể hiện cá tính của người làm công việc hệ thống hóa mà thôi (Nietzsche).
(5) Một hệ thống không thể chứa đựng tính phản tư tối cao của tinh thần con người. Những câu hỏi như “Tại sao thích chân lý hơn sai lầm?” (Nietzsche) hay “Tại sao có một hệ thống?” nhất thiết xuất hiện bên ngoài bất kỳ hệ thống nào.
Hegel ắt phải thừa nhận (1), mặc dù (1) không dẫn đến kết luận rằng, về nguyên tắc, một hệ thống là bất khả hay không đáng mong muốn. Ông minh nhiên bác bỏ (2) trong BKTI, §14. Mối quan tâm đến chân lý và tính khách quan của ông dẫn ông đến bác bỏ (3), dù ông đã chưa bàn về Kierkegaard trong nghiên cứu của mình về “Ý THỨC bất hạnh”. Ông nỗ lực loại trừ các yếu tố cá nhân đã được nhắc đến trong (4); câu trả lời của ông đối với (các) vấn đề của tri thức hiển nhiên là không thấp kém hơn câu trả lời của Nietzsche. Tư tưởng của Hegel và cấu trúc của hệ thống của ông tiến hành bằng con đường của các PHẢN TƯ liên tiếp về trạng thái hiện tại của trò chơi: không có gì rõ ràng là ông không thể tiếp thu các câu hỏi xuất hiện trong (5), cho dù ông không làm điều đó một cách minh nhiên. (Các phản tư của ông về chân lý cũng không ít tính sáng tạo hơn các phản tư của Nietzsche).
Hegel cũng sử dụng System theo nghĩa không mang tính kỹ thuật, chẳng hạn như với hệ thống thuế, và với “hệ thống các nhu cầu” của Xà HỘI DÂN Sự’ (THPQ, §§189 và tiếp; BKTIII, §§524 và tiếp).
Nguyễn Trúc Phương dịch