Kinh nghiệm và Thường nghiệm (cái) [Đức: Erfahrung und das Empirische; Anh: experience and the empirical]
Hegel sử dụng chữ gốc Hy Lạp Empirie (kinh nghiệm), empirisch (thường nghiệm) và Empirismus (thuyết duy nghiệm), nhưng ông cũng dùng những chữ Đức bản địa là (động từ) erfahren và (danh từ) Erfahrung để chỉ kinh nghiệm. (Động từ erleben và danh từ Erlebnis (Anh: “lived experience”) (trải nghiệm/kinh nghiệm sống trải) chỉ trở nên quan trọng trong thế kỷ XX mà thôi). Erfahren nảy sinh từ tiếp đầu ngữ er- (xem thêm HIỆN TƯỢNG) và fahren, nguyên nghĩa là “đi, lên đường, lang thang”), nên mới có chữ “đi mạnh giỏi, đi bình an”, và “đi du lịch hay du hành”. Do vậy, nghĩa gốc của erfahren là “bắt đầu một chuyến du hành để khảo sát hay tìm hiểu cái gì đó”. Erfahrung chỉ quá trình du hành này hoặc đến kết quả của nó.
Erfahrung được dùng lần đầu tiên khi Paracelsus dịch chữ La-tinh experientia. Nó tưong phản với những gì chỉ đon thuần là TƯ TƯỞNG và với những gì được chấp nhận dựa vào quyền uy hoặc truyền thống. Trong PPLTTT, Kant lập luận rằng mọi nhận thức đều bắt đầu bằng kinh nghiệm, nhưng không phải tất cả đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, vì kinh nghiệm là sản phẩm tổng hợp của các TRựC QUAN cảm tính, các mô thức thuần túy của trực quan (không gian và thời gian) và các phạm trù của GIÁC TÍNH mà ta dùng để thêm vào các trực quan ấy. Chúng ta không thể có NHẬN THỨC, theo quan niệm của Kant, về những gì vượt khỏi kinh nghiệm như thế, nghĩa là, về Vật-tự thân và về những thực thể như THƯỢNG ĐẾ, LINH HỒN, và Tự DO.
Hegel dùng chữ Erfahrung nhiều hơn một nghĩa. Trong HTHTT, nó không quan hệ với bất kỳ HÌNH THÁI Ý THỨC đặc thù nào, nhưng là kinh nghiệm được ý thức [nói chung] trải qua trên đường đi đến KHOA HỌC. Ở đây rõ ràng gợi ý đến một chuyến du hành khám phá. Hơn nữa, kinh nghiệm của ý thức hoàn toàn không thường nghiệm: kinh nghiệm không tương phản với “tư tưởng” (dù Hegel phân biệt các kinh nghiệm của ý thức với Lô-gíc học), nhưng ông muốn nói đến những gì ý thức trải qua hay tìm ra được cho chính mình, tương phản với những gì mà chúng ta - những kẻ quan sát từ bên ngoài - biết về nó. “Kinh nghiệm” theo nghĩa này khác với nghĩa thông thường của nó ở chỗ ý thức khám phá ra sự không-thích đáng của một trong những hình thái của nó và tiến đến hình thái kế tiếp, không phải bằng cách chạm trán với đối tượng khác nào đó trong kinh nghiệm của nó, mà bằng cách kinh nghiệm sự không-nhất quán nội tại giữa ĐỐI TƯỢNG và quan niệm của ý thức về đối tượng ấy và sự biến đổi quan niệm ấy thành đối tượng kế tiếp của mình.
Ý tưởng rằng kinh nghiệm, về bản chất, là kinh nghiệm riêng của bản thân mỗi người vẫn dai dẳng trong những nghiên cứu về sau của Hegel về kinh nghiệm thường nghiệm, nhất là trong những mục dẫn nhập của BKTI. Về công lao của thuyết duy nghiệm, ông cho rằng, ngoài việc nó mang lại những luận chứng về nhận thức để bảo vệ cho những yêu sách của mình, nó còn có công ở chỗ đã nhấn mạnh rằng con người chỉ nên chấp nhận những gì mà họ tự thân trải nghiệm mà thôi. Điều này dẫn ông đến chỗ đồng hóa, chẳng hạn, NHẬN THỨC trực tiếp, hay NIỀM TIN của E H. Jacobi vào những thực thể như THƯỢNG ĐỂ với thuyết duy nghiệm của Hume và của các nhà khoa học tự nhiên. Nhưng, còn một nguồn suối nữa cho sự đồng hóa này, đó là sự bất định của mối quan hệ giữa kinh nghiệm và tư tưởng. Sự bất định này đôi khi xuất hiện nơi Kant, nhưng rõ nhất là nơi Hume, ở chỗ kinh nghiệm, một cách mơ hồ nước đôi, vừa là kinh nghiệm về các ấn tượng, không đòi hỏi tiến trình khái niệm hay tưởng tượng nào cho sự lĩnh hội những ấn tượng ấy, vừa là kinh nghiệm về các đối tượng, vốn là một kiến tạo khái niệm và tưởng tượng. (Hume cũng nước đôi làm ta không biết kinh nghiệm ông nói đến là kinh nghiệm riêng của mỗi người hay là kinh nghiệm của con người nói chung: không phải là kinh nghiệm cá nhân của tôi, mà là của nhân loại nói chung cho [ta biết] rằng, chẳng hạn, người chết không thể sống lại). Vì thế, kinh nghiệm nổi Hegel có ba nghĩa rộng:
(1) Kinh nghiệm, nhất là trong những nghiên cứu của Hume, là chất liệu thô, chưa được tư tưởng xử lý. (Hegel tin rằng ông đã phản bác được thuyết duy nghiệm viện đến kinh nghiệm theo nghĩa này trong nghiên cứu của ông về sự xác tín cảm tính trong HTHTT, I).
(2) Chính chất liệu cảm tính là cái đã trải qua những tiến trình nào đó trong việc xử lý về mặt khái niệm. Hegel thường quan niệm rằng kinh nghiệm theo nghĩa này vượt khỏi TRI GIÁC ở chỗ nó chứa đựng các QUY LUẬT thường nghiệm, nhưng nó không thấy sự TẤT YỂU của những quy luật ấy.
(3) Theo nghĩa rộng, những thực thể như THƯỢNG ĐỂ cũng là những đối tượng của kinh nghiệm. Nghĩa này có rất nhiều nguồn suối: chẳng hạn, HTHTT xem “kinh nghiệm” như được trải qua với bất kỳ đối tượng nào của ý thức, và tuyên bố của Goethe rằng dù “kinh nghiệm” [thường nghiệm] (Empirie) thường tưong phản với “lý thuyết” (Theorie), vẫn có một loại kinh nghiệm đã được tinh lọc đồng nhất rất mật thiết với đối tượng mà nó đã nâng lên đến cấp độ lý thuyết. Tuy vậy, lập luận trung tâm của Hegel là: Hume và Kant phân biệt sự khái niệm hóa chính đáng các chất liệu cảm tính được chứa đựng trong các khoa học tự nhiên với sự áp dụng các khái niệm vào cho các thực thể siêu việt như THƯỢNG ĐẾ. Nhưng phân biệt này là tùy tiện. Thượng Đế được các nhà thần học duy lý trình bày như siêu việt thể, họ định đề hóa một vực thẳm giữa Thượng Đế và thế giới phàm trần. Nếu ta bác bỏ quan niệm không nhất quán này, thì việc kinh nghiệm về Thượng Đế sẽ chỉ là áp dụng nhiều tư tưởng hay khái niệm hon vào cho kinh nghiệm của ta về thế giới trần tục. Kant và các nhà duy nghiệm đã tìm cách ấn định một ranh giới lên tư tưởng của ta.
Bất chấp sự mở rộng này của khái niệm về kinh nghiệm, đối với Hegel, kinh nghiệm vẫn khác biệt với tư duy, nhất là tư duy triết học TRỪU TƯỢNG, vì kinh nghiệm theo cả ba nghĩa trên đều chứa đựng kinh nghiệm theo nghĩa (1) theo cách mà tư tưởng thuần túy không làm được. Tư tưởng tiền giả định kinh nghiệm nếu nó không muốn bị nghèo nàn và xơ cứng đi, giống như triết học thời đầu. Nó không tiền giả định trước hết về kinh nghiệm riêng của triết gia, cho bằng hoạt động của các nhà khoa học thường nghiệm, các sử gia, nhà thần học, V.V., những người tiến hành xử lý chất liệu thường nghiệm thành kinh nghiệm theo nghĩa (2), và đôi khi theo nghĩa (3), thì đã là gặp gỡ triết gia ở nửa đường rồi. Sau đó, triết gia tiếp thu các kết quả của các khoa học thường nghiệm (Erfahrungswissenschaften) và chỉ ra chúng là tiên nghiệm (a priori) và tất yếu, giống như các nhà hình học Hy Lạp đã tiếp thu các kết quả của các nhà hình học thường nghiệm [các nhà đạc điền] đi trước và đưa chúng vào một hệ thống tiên nghiệm. Nói chung, một khi cái gì đó đã được khám phá một cách hậu nghiệm (a posteriori), nhưng không phải trước đó [về mặt thời gian], triết gia có thể xác lập nó một cách tiên nghiệm. Vì các nhà khoa học thường nghiệm sử dụng các tư tưởng hay các phạm trù vốn là quan tâm của Lô-gíc học, triết gia cũng có thể phê phán sự nghiên cứu của họ về kinh nghiệm nếu họ hiểu sai hay áp dụng sai các phạm trù.
Hegel thường xem những môn học có tính khái niệm hay tiên nghiệm là thường nghiệm, nếu chúng xử lý vấn đề một cách không hệ thống và bừa bãi. Chẳng hạn, Lô-gíc học truyền thống, hình học và Lô-gíc học siêu nghiệm của Kant được ví với các khoa học thường nghiệm, không phải vì chủ đề của chúng về bản chất là thuộc kinh nghiệm, mà bởi chủ đề được rút ra, phát triển và trình bày một cách không có hệ thống mà là “một cách thường nghiệm” hay “lịch sử” (historisch - theo ngữ cảnh này, “lịch sử” là từ tương đương có nghĩa xấu của chữ “thường nghiệm”).
Hoàng Phú Phương dịch