Hiện tượng học Tinh thần (1807) [Đức: Phänomenologie des Geistes; Anh: Phenomenology of spirit]
Nhan đề đầy đủ của công trình này là: Hệ thống khoa học: Phần thứ nhất, Hiện tượng học Tinh thần (System der Wissenschaft: Erster Teil, die Phänomenologie des Geistes). Ban đầu nó được quan niệm như là phần Dẫn Nhập của hệ thống mà Hegel đã từng dự kiến trong các tác phẩm và các bài giảng của mình ở Jena. Sau một vài bước đầu không trôi chảy, vào mùa đông năm 1805, ông bắt tay viết dẫn nhập cho hệ thống của ông, cùng với Lô-gíc học, được dự kiến làm thành quyển thứ nhất. Nhưng Phần dẫn nhập lại được mở rộng quá dự kiến ban đầu, và vào mùa hè năm 1806, nó được coi là một phần riêng biệt.
Ban đầu, Hegel có ý đặt tên cho nhan đề phụ là “Phần thứ nhất. Khoa học vẽ kinh nghiệm của ý thức’-, nhan đề phụ này đã xuất hiện ở một vài bản in và vẫn còn xuất hiện trong một số các ấn bản hiện nay (như của Hoffmeister) giữa phần Lời Tựa và phần Dẫn Nhập. Chữ Phänomenologie xuất hiện lần đầu trong tờ thông báo của Hegel về các bài giảng của ông cho khóa học mùa đông năm 1806-7: “(a) Lô-gíc học và siêu hình học hay triết học tư biện, sẽ tiếp theo sau Hiện tượng học tinh thần, dựa theo cuốn sách sắp công bố là Hệ thống khoa học..” Vì thế, nhan đề phụ nguyên thủy bị thay bằng “I. Khoa học vẽ Hiện tượng học Tinh thần”, xuất hiện ở giữa phần Lời Tựa và phần Dẫn Nhập trong một số bản in của lần xuất bản thứ nhất.
Trong một “Thông báo” ngắn về cuốn sách, Hegel thông báo rằng nó sẽ được tiếp tục bằng quyển thứ hai, chứa đựng “hệ thống Lô-gíc học như là triết học tư biện và hai phần khác nữa của triết học là Khoa học vẽ tự nhiên và Khoa học tinh thần” (Intelligenzblatt der Jenaer Allgemeinen Literatur- Zeitung, 28 tháng 10 1807). Trong Lời Tựa cho lần xuất bản thứ nhất của KHLG (22 tháng 3 1812), Hegel khẳng định rằng đây là kế hoạch nguyên thủy của ông, nhưng nói thêm rằng vì Lô-gíc học được mở rộng thành một bộ riêng biệt, nên phần nghiên cứu về hai môn khoa học “thực tồn” ấy [Triết học Tự nhiên và Triết học Tinh thần] sẽ dời lại sau. Khi duyệt lại KHLG, ông lưu ý thêm rằng trong lần xuất bản thứ hai của HTHTT, được xuất bản vào “Lễ Phục sinh sắp tới” (1832), nhan đề “Hệ thống khoa học” sẽ bị xóa bỏ, vì kế hoạch ban đầu đã bị BKT vượt qua. Hegel bắt đầu xem xét lại HTHTT cho lần xuất bản thứ hai vào mùa xuân năm 1831, nhưng lại không kịp chỉnh sửa hon nửa phần đầu của Lời Tựa [vì Hegel đột ngột qua đời. N.DJ. Ân bản năm 1832 của J. Schulze, tập hợp Các công trình di cảo, bao hàm cả các chỉnh sửa này.
HTHTT mở đầu bằng phần Lời Tựa dài (được viết sau cùng), đưa ra một tổng quan về hệ thống được dự phóng của Hegel và mối quan hệ của nó với nền văn hóa của thời đại. Trong “Thông báo”, Hegel nói rằng Lời Tựa đưa ra quan niệm của ông về “nhu cầu của triết học ngay tại khởi điểm hiện nay của nó” và về “tiền giả định và sự quấy rầy của các công thức triết học hiện nay đang làm giảm giá triết học”. Những nhận xét này nọ, như sự phê phán về cái TUYỆT ĐỐI trống rỗng, là nhằm vào Schelling, trong số những người khác: HTHTT là nổi Hegel phô bày công khai những nét khác biệt của mình với Schelling. (Nhưng Hegel chịu nhiều ảnh hưởng từ một số những tư tưởng khác của Schelling, đặc biệt là tư tưởng về một LỊCH SỬ (Geschichte) của Tự-Ý THỨC trong DTSN chẳng hạn).
Tiếp theo phần Lời Tựa (Vorrede) là phần Dẫn Nhập (Einleitung) ngắn hon, trong đó Hegel giải thích vấn đề NHẬN THỨC, mà HTHTT phần nào là câu trả lời: nếu ĐỐI TƯỢNG của nhận thức khác với bản thân nhận thức, thì làm thế nào chúng ta chắc chắn rằng cả hai phù hợp với nhau? Hegel phản bác quan niệm (của Kant) coi nhận thức như là một công cụ: chúng ta phải khảo sát nó trước khi tiến hành làm việc với các đối tượng, và quan niệm (của Lambert) coi nhận thức như là một môi trường: giống như ta có thể phát hiện ra quy luật khúc xạ đang chi phối hiện tượng đứt gãy “tia sáng” từ đối tượng. Cả hai quan niệm này đều giả định, chẳng hạn, rằng ít ra nhận thức có thể cung cấp thông tin đáng tin cậy về chính nó. Trái lại, Hegel đề xuất một sự khảo sát về Ý THỨC ở bên trong bản thân ý thức và đánh giá nó bằng chính tiêu chuẩn riêng của nó. Mỗi một hình thái của ý thức sẽ tỏ ra yếu kém, và sẽ trở thành đối tượng của hình thái ý thức kế sau. “Thông báo” của Hegel nói rằng HTHTT “miêu tả sinh động sự ra đời của nhận thức (das werdende Wissen/cái Biết đang trở thành)” và “thế chỗ cho các lối giải thích tâm lý học cũng như các lối nghiên cứu trừu tượng hon về cơ sở của nhận thức”.
“Thông báo” tóm tắt phần chính của công trình như sau:
“Nó coi nhiều HÌNH THÁI [Gestalten] khác nhau của tinh thần là các trạm dừng trên con đường đến với chính nó [Stationen des Weges in sich], con đường qua đó nó trở thành nhận thức thuần túy hay tinh thần tuyệt đối. Các khu vực chính của khoa học, đến lượt chúng được phân chia nhỏ hon, vì thế sẽ xem xét: ý thức, tự-ý thức, lý tính quan sát và lý tính thẩm tra quy luật, bản thân tinh thần xét như là tinh thần đạo đức, tinh thần được đào luyện và tinh thần luân lý, và cuối cùng như là tinh thần tôn giáo trong các hình thái khác nhau của nó. Sự phong phú của các hiện tượng [Erscheinungen] của tinh thần, thoạt đầu có vẻ như là hỗn độn, sẽ được trình bày trong tính TẤT YỂU của nó: các hiện tượng bất toàn sẽ tiêu biến đi và chuyển thành những hiện tượng cao hon, vốn là CHÂN LÝ hay sự thật kế cận của chúng. Chúng đạt tới chân lý tối hậu thoạt đầu là trong tôn giáo, sau là trong khoa học, kết quả của cái toàn bộ”.
Nhan đề phụ nguyên thủy của HTHTT, và Lời Dẫn Nhập, hàm ý rằng HTHTT, giống như mục Hiện tượng học trong BKTIII, sẽ chỉ bàn đến ý thức về các đối tượng. Nhưng nội dung chủ đề của nó mở rộng quá phạm vi ý thức xét như là ý thức sang các hình thái của Tinh thần mang tính lịch sử-xã hội liên cá nhân, chiếm nửa phần sau của HTHTT (VI và các chưong kế tiếp). Ở đây những bước chuyển từ hình thái tinh thần này sang hình thái tinh thần kế tiếp ít liên quan gì đến Sổ đồ được phác họa trong Lời Dẫn Nhập. Hegel tin rằng “nhận thức” không phân biệt rạch ròi với các hoạt động và các thái độ thực tiễn của chúng ta, tức là nó không phải là thành tựu của chỉ riêng cá nhân mà bao hàm nhiều mối quan hệ liên cá nhân, rằng “nhận thức”, hay điều ta biết, là không như nhau giữa các giai đoạn lịch sử, và điều ta biết trong một thời đại lịch sử nào đó phụ thuộc vào những gì đã xảy ra trong các thời đại trước đó, cả về nhận thức lẫn trong các phưong diện khác. Vì thế, điều được dự kiến ban đầu là cung cấp một sự dẫn nhập vào KHOA HỌC đã vượt ra khỏi mục đích sư phạm của nó để trở thành một khảo sát tổng quan ít nhiều hoàn chỉnh về sự ĐÀO LUYỆN [VĂN HÓA] (Bildung) của con người và lịch sử thế giới.
Nhưng HTHTT không trình bày lịch sử theo một đường thẳng tuột. “Ý thức” (I-III) không được định vị trong một thời đại lịch sử đặc thù. “tự-ý
thức” (IV) đi từ thời tiền sử (đấu tranh để THỪA NHẬN) đến Hy Lạp và La Mã (THUYẾT Khắc kỷ và THUYẾT HOÀI NGHI) và Kitô giáo trung đại (ý thức bất hạnh). “LÝ TÍNH” (V) xem xét khoa học hiện đại và LUÂN LÝ. “Tinh thần” (VI) trở lại với ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC Hy Lạp Sổ kỳ và xuống đến Cách mạng Pháp và nền luân lý hậu-cách mạng. “Tôn giáo” (VII) lần theo dấu vết của tôn giáo từ Israel và/hay Ba Tư thời cổ đại xuống đến Kitô giáo. Các thời đại lịch sử do đó được bàn như là các hệ hình của các pha [hay mô-men] của tư tưởng và sự đào luyện văn hóa; thường thì, nhưng không phải là bất biến, trình tự lô-gíc hay trình tự hệ thống của các pha này trùng khớp với trình tự của sự xuất hiện của chúng trong lịch sử.
Ở thời Hegel, lịch sử thường được coi là kết quả của sự xuất hiện và sự ngự trị của các quan năng tâm lý kế tiếp ngày càng cao hon, các loại hình của lý tính hay các pha của sự phát triển tôn giáo. Thường thì, sự PHÁT TRIỂN của cá thể được cho là trải qua cùng các giai đoạn với lịch sử của giống loài. Cách Hegel đan quyện lịch sử, tâm lý học và nhận thức luận lại với nhau gần với cách làm của Schiller:
“Cả ba MÔ-MEN này [trạng thái “vật lý” của sự ngự trị của tự nhiên đối với con người, trạng thái “thẩm mỹ” của sự giải phóng con người khỏi tự nhiên, và trạng thái “luân lý” của việc con người làm chủ tự nhiên] nhìn chung là ba thời đại khác nhau cả trong sự phát triển của loài người xét như là một toàn bộ lẫn trong toàn bộ sự phát triển của cá nhân con người; nhưng chúng cũng có thể được nhận thấy rõ trong mọi tri giác của cá nhân về một đối tượng và, nói ngắn gọn, cả ba mô-men ấy là những điều kiện cần của bất cứ nhận thức nào mà ta có được bằng các giác quan”. (GDCN, XXV)
“Tri thức tuyệt đối”, ở phần kết thúc của HTHTT, phần nào là tri thức mà bản thân Hegel trình bày trong khi viết HTHTT. Nó bao hàm một sự thức nhận các hình thái khác nhau của tinh thần và của mối quan hệ với nhau của chúng mà không một hình thái tinh thần nào trước đó có được, và cũng là một năng lực tái kiến tạo cái lô-gíc đã phần nào chi phối sự phát triển của tinh thần được phác họa trong HTHTT. Tri thức tuyệt đối đã được chuẩn bị sẵn bởi sự phát triển của tinh thần qua suốt lịch sử, và từng mỗi độc giả được đưa vào trong nó bằng việc nghiên cứu HTHTT.
Sau này, Hegel cho thấy ông không thỏa mãn với quan niệm và cách triển khai của HTHTT. Vậy, HTHTT giữ vai trò gì trong hệ thống chín muồi của Hegel? Với tính cách là một dẫn nhập có tính sư phạm vào hệ thống, thì nó là không cần thiết, bởi dù Hegel xem một sự dẫn nhập nào đó là cần thiết đi nữa, thì ông thực ra đã cung cấp một lời dẫn nhập khác, đó chính là phần nghiên cứu về “các thái độ của tư tưởng đối với tính khách quan” (Leibniz, Wolff và những người khác, Kant và Jacobi) ở BKT I §§25-78. Vì hệ thống tạo thành một vòng tròn, nên BKTIII cũng có thể dùng như là sự dẫn nhập cho BKTI. Còn nếu xét như là một nghiên cứu về con đường lịch sử qua đó nhân loại đạt tới tri thức tuyệt đối, thì nó cũng không cần thiết, vì dù Hegel tin rằng cần có nghiên cứu như thế, thì nhu cầu này đã được BKTIII đáp ứng rồi (với tính cách là sự tường trình về sự phát triển của tinh thần, tức cũng đã mang tính lịch sử) và bởi các bài giảng lịch sử đi kèm theo nó. Tuy nhiên, HTHTT là một công trình phong phú, cho dù có hỗn độn, chứa đựng nhiều chất liệu (về sự xác tín cảm tính, về nhân tướng học và tướng sọ học v.v.) không thể tìm thấy trong bất cứ công trình nào khác của Hegel.
Đinh Hồng Phúc dịch