Triết học phê phán [Đức: Kritische Philosophie; Anh: Critical Philosophy]
Xem thêm: Bộ chuẩn tắc, Khai minh, Lịch sử Triết học, Phán đoán, Nhận thức, Hòa bình, Triết học, Công khai, Chiến tranh,
Triết học phê phán là tên gọi của dự án triết học được Kant thực hiện trong ba cuốn Phê phán: Phê phán Lý tính Thuần túy, Phê phán Lý tính Thực hành, và Phê phán Năng lực Phán đoán. Đây là phản ứng của Kant trước điều được ông mô tả như thời đại của mình: “Thời đại của chúng ta là thời đại đích thực của sự Phê phán, buộc mọi cái phải phục tùng”. Không những “tôn giáo, nhờ tính thiêng liêng của nó, và lập pháp, nhờ tính tôn nghiêm”, mà bản thân lý tính cũng phải phục tùng “trước sự kiểm nghiệm tự do và công khai” của lý tính (PPLTTT AI2 [chú thích]). “Óc phán đoán đã chín muồi của thời đại là một sự kêu đòi lý tính hãy, một lần nữa, làm công việc khó khăn, vất vả nhất trong mọi công việc của nó, đó là công việc tự nhận thức chính mình” (PPLTTT All) và để làm điều ấy nó phải thiết lập “một phiên tòa để vừa bảo vệ những yêu sách chính đáng [của lý tính]”, một phiên tòa “nghiêm khắc nhưng công bình” (PPLTTT A 395). Việc Kant sử dụng ẩn dụ tòa án cho sự tự-kiểm thảo của lý tính không phải là ngẫu nhiên, bởi với ông, không có tòa án này thì lý tính sẽ “hầu như ở trong trạng thái tự nhiên [mông muội], và không thể đòi thừa nhận hay bảo vệ các khẳng định và các yêu sách của mình bằng cách nào khác hon là chiến tranh” (PPLTTT A 751/ B 779). Trong khi cuộc xung đột giữa hai phái xung khắc là thuyết giáo điều và thuyết hoài nghi chỉ kết thúc khi một bên giành được phần thắng mà bên nào cũng muốn giành về cho mình và chỉ có được cuộc hưu chiến tạm thời, sự phê phán của lý tính tiến hành công việc của mình “bằng một phán quyết của tòa án phân xử đến tận gốc rễ của sự tranh biện”. Nó làm điều đó “căn cứ trên các luật lệ của riêng tòa án tối cao, một định chế có uy tín không thể nghi ngờ” (PPLTTT A751/B 779).
Triết học phê phán giành được các nguyên tắc nền tảng của mình không phải nhờ “phê phán các tác phẩm và các hệ thống triết học” mà là nhờ vào “quan năng lý tính nói chung” (PPLTTT A12). Nó tiến hành bằng cách “nghiên cứu về quan năng lý tính đối với mọi nhận thức thuần túy tiên nghiệm” (PPLTTT A 841/ B 869) và cách tiến hành đó là môn dự bị hay chuẩn bị cho một hệ thống các nguyên tắc của siêu hình học tư ổng lai. Kant diễn đạt bản tính dự bị này của triết học phê phán bằng nhiều cách khác nhau: đó là một sự nghiên cứu về bộ chuẩn tắc của lý tính trước khi tổ chức nó thành một bộ công cụ; là một sự làm sáng tỏ một cách tiêu cực về lý tính trước khi trình bày nó một cách tích cực, và thậm chí còn là việc “dành chỗ cho lòng tin” (PPLTTT B 30). Nó phân biệt với thuyết giáo điều và thuyết hoài nghi ở chỗ nó không “tự cho rằng mình có sự hiểu biết trong mức độ cần thiết để có thể phán đoán khẳng định hay phủ định” mà “chỉ vạch ra rằng người ta đã khẳng quyết dựa trên một giả định vô hiệu và đon thuần bịa đặt” (PPLTTT A 389). Nói khác đi, triết học phê phán “không xem xét vấn đề theo kiểu khách quan, trái lại, xem xét ngay Cổ sở của nhận thức mà vấn đề ấy dựa vào” (PPLTTT A 484/ B 512).
Kinh nghiệm của hai thế kỷ đã qua kể từ khi các cuốn phê phán của ông được xuất bản đã được nâng đỡ một cách thuyết phục tuyên bố của Kant rằng xã hội Tây phưong đã bước vào một thời đại phê phán mà trong đó không gì thoát khỏi sự phê phán. Những đối tượng của sự phê phán trải dài từ tôn giáo, đến kinh tế học chính trị, đến văn học và đã tạo ra những tổ chức hay “những tòa án” hùng mạnh của sự phê phán. Tuy vậy, ngay cả những người đưong thời của Kant đã xem các yêu sách đòi thiết lập một tòa án phê phán của ông là không trung thực [disingenuous], với Hamann (1967) và Herder (1953) trong các “siêu-phê phán” của mình đã chỉ ra rằng “chủ nghĩa thuần túy” về lý tính đã xem nhẹ sự nưong tựa tuyệt đối của nó vào một “định chê” đang tồn tại, tức ngôn ngữ. Thế hệ các triết gia tiếp sau như Hegel đã tin rằng lý tính đang ở trong một vị thế thích đáng để phê phán chính mình. Các triết gia về sau như Marx và Nietzsche cũng hoài nghi tưong tự về “tòa án phê phán”; họ tán thành mô men phủ định, phê phán của triết học Kant trong khi lại chê trách việc ông muốn trở thành một triết gia-nhà lập pháp [luân lý]. Với họ, và cũng như với nhiều triết gia thế kỷ XX, sự phê phán phải giữ cảnh giác trước bất kỳ việc rơi trở lại nào vào thuyết giáo điều trí tuệ và có tính định chế. Tâm thế [ethos] này thậm chí còn quay trở lại trong sự chú giải gần đây về Kant vốn đã hạ thấp các phương diện “nền tảng” của triết học phê phán để ủng hộ cho phương pháp luận “chống-bảo căn luận” của nó.