Định đề của tư duy thường nghiệm (các) [Đức: die Postulaten des empirischen Denkens; Anh: postulates of empirical knowledge]
Xem thêm: Phạm trù (các), Tmh thái, Hiện tượng học, Nguyên tắc (các),
Các định đề của tư duy thường nghiệm là nhóm các nguyên tắc có vai trò như là các quy tắc cho việc sử dụng những phạm trù tình thái. Cùng với “các tiên đề của trực quan”, “các dự đoán của tri giác” và “các loại suy của kinh nghiệm”, các định đề này gồm “hệ thống các nguyên tắc của giác tính thuần túy” trong PPLTTT, và cũng được mô tả trong SL là “các nguyên tắc tự nhiên học”. Mặc dù được xếp loại cùng với các loại suy như là các nguyên tắc “năng động” đối lập với các nguyên tắc “toán học”, nhưng các định đề vẫn khác với ba tập hợp các nguyên tắc kia. Ba tập hợp này là những câu trả lời cho vấn đề về những phương cách mà các hiện tượng phải quan hệ với nhau, và thấy rằng chúng có quan hệ về lượng, chất và tương quan. Những quan hệ này không phải là quan hệ có tính phạm trù trực tiếp, cũng không phải là quan hệ thường nghiệm, mà là những quan hệ tạo nên “những điều kiện của kinh nghiệm”, và những điều kiện này cũng là “những điều kiện cho các đối tượng của kinh nghiệm” của một tồn tại hữu hạn có trực quan cảm tính [tức của con người].
Tuy nhiên, các định đề không chi phối các quan hệ của các hiện tượng riêng lẻ với nhau, mà chi phối quan hệ của các hiện tượng với “quan năng nhận thức”. Chúng hỏi làm thế nào các hiện tượng quan hệ được với một tồn tại hữu hạn [con người], và theo đó, biến các phạm trù tình thái: khả thể, hiện thực và tất yếu thành những nguyên tắc không gian-thời gian. Các định đề cũng không đon thuần có ý nghĩa về mặt logic, tức “diễn tả có tính cách phân tích về mô thức của tư tưởng” (PPLTTT A 219/B 266), chúng cũng không phải là những thuộc tính bản thể học của những tồn tại như của Thượng đế (một “tồn tại tất yếu”). Chúng diễn tả thể cách hay phưong cách mà một kinh nghiệm cá biệt có quan hệ với những điều kiện của kinh nghiệm khả hữu. Hon nữa, với tư cách là những định đề, chúng có những đặc điểm hình thức của toàn bộ các định đề của Kant, đó là chúng phụ thuộc vào “sự tồn tại” của những điều kiện của kinh nghiệm khả hữu cũng như hình thành một điều kiện cho “sự tồn tại” của kinh nghiệm.
Kant biến phạm trù “tính khả thể” (possibility) thành “cái khả hữu”(the possible), hay “cái gì trùng hợp với các điều kiện mô thức của kinh nghiệm, (nghĩa là, với trực quan và những phạm trù)” (PPLTTT A 218/B 266). Một khái niệm khả hữu là khái niệm không đi ngược lại những điều kiện mô thức của kinh nghiệm, cho dù điều này không yêu sách rằng một đối tượng tưong ứng với khái niệm phải tồn tại hiện thực. Phạm trù “tính hiện thực”(actuality), đến lượt nó, được biến thành các nguyên tắc về “cái hiện thực”(the actual) [cái thực sự tồn tại]; một khái niệm “thực sự [tồn tại] phải thực sự tuân theo những điều kiện mô thức của kinh nghiệm (tức là nó phải là khả hữu), nhưng thêm vào đó nó phải “nối kết với những điều kiện chất thể của kinh nghiệm, (của cảm giác)” (A 218/B 266). Điều này không có nghĩa là đối tượng của nó phải được tri giác, mà là nó phải tưong ứng “với các loại suy của kinh nghiệm là những cái nối kết mọi [loại] kết nối hiện thực trong một kinh nghiệm nói chung” (A 225/B 272). Điều này có nghĩa là những kinh nghiệm khả hữu không thể được xét là hiện thực trừ phi chúng phục tùng các quy tắc của các hiện tượng có quan hệ với nhau dựa theo: sự thường tồn của bản thể, mối quan hệ nhân quả, và tác động hỗ tương. Cuối cùng, phạm trù “tính tất yếu”(necessity) trở thành “cái tất yếu ’’(the necessary), hay “cái nối kết với cái hiện thực được xác định theo các điều kiện phổ biến của kinh nghiệm” (A 218/B 266). Trong trường hợp này, kinh nghiệm hiện thực được cho là hoàn toàn phù hợp với cả những điều kiện mô thức lẫn những điều kiện chất thể của kinh nghiệm (A 277/B 279).
Vì các định đề quy định mối quan hệ giữa chủ thể của kinh nghiệm với những kinh nghiệm của nó, nên rõ ràng chúng rất có ý nghĩa cho những tranh luận xoay quanh thuyết duy tâm và thuyết duy thực. Thực vậy, trong ấn bản thứ hai [ấn bản B] của PPLTTT, khi đang nói về các định đề thì giữa chừng Kant lại xen tiểu mục “Bác bỏ thuyết duy tâm” vào làm đứt đoạn cuộc bàn luận, giữa phần nói về định đề thứ hai và định đề thứ ba. Tiểu mục lệch đề ấy triển khai một sự phê phán về “thuyết duy tâm nghi vấn” của Descartes và “thuyết duy tâm giáo điều” của Berkeley. Rất tiếc là, năng lượng lý giải đã được dùng hết vào việc bàn luận ngoài đề mang tính luận chiến hơn là vào việc xét một cách có hệ thống những định đề làm cơ sở cho nó.
Đinh Hồng Phúc dịch