Tuyệt đối (cái, tính) [Latinh: absolutus; Đức: Absolut; Anh: absolute]
Xem thêm: Nghịch lý, Vũ trụ học, Tự do, Thượng đế,
“Tuyệt đối” là quá khứ phân từ của động từ Latinh absolvere: “miễn trừ, tha tội, thoát khỏi nợ nần”. Thuật ngữ này có thể được dùng như tính từ hoặc như danh từ: hoặc định tính chất cho cái gì đó như thoát khỏi mọi mối quan hệ, quy định hay sự giới hạn, hoặc chỉ đến cái gì có tính chất tự do. Sự sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa triết học là của thời cận hiện đại, xuất hiện lần đầu tiên nổi Spinoza khi nó mang âm hưởng của các bàn luận chính trị về “chủ quyền tuyệt đỗi” và các bàn luận thần học về Thượng đế như cái Tuyệt đối. Spinoza sử dụng thuật ngữ này như tính từ, chẳng hạn như trong “sự chắc chắn tuyệt đối”, “vận động tuyệt đối”, “sự làm chủ tuyệt đối của tinh thần đối với những xung động bản năng” (xem Deleuze, 1988, tr. 409; xem thêm tr. 237, 264, 595).
Kant cũng sử dụng thuật ngữ này theo tính từ, và thường dùng đối lập với “tương đối” và “so sánh”. Sự sử dụng sớm nhất được ghi nhận của ông xuất hiện trong sự phân biệt giữa lập trường tuyệt đối và tương đối trong HHTĐ. Trong PPLTTT, ông dành hai trang để làm rõ “một thuật ngữ không thể nào không sử dụng, mặc dù ý nghĩa của nó rất hàm hồ do bị lạm dụng quá nhiều khiến khi sử dụng, ta cảm thấy không an toàn [đó là chữ “Tuyệt đối”]” (A 324/ B 380). Khái niệm tuyệt đối theo nghĩa tính từ bao hàm sự mơ hồ nước đôi gồm hai nghĩa. Nghĩa đầu tiên chỉ đến khả thể bên trong - tức “cái gì đó có thể có trong chính nó”, tức là khả thể tối thiểu hay “cái tối thiểu mà người ta có thể nói vê một đối tượng”; nghĩa thứ hai lại chỉ đến “cái gì đó có giá trị trong mọi mối quan hệ (không bị giới hạn), (chẳng hạn, “sự thống trị tuyệt đối”; như vậy, “tuyệt đối có thể” theo nghĩa này lại hàm nghĩa rằng cái gì đấy là có thể có trong mọi mối quan hệ và trong mọi phương diện - tức cái tối đa mà tôi có thể nói về khả thể của một sự vật” (A 324/ B 381). Kant chọn nghĩa thứ hai, nghĩa rộng hơn về tuyệt đối, nhưng ông khuyến cáo rằng nó phải được sử dụng một cách thận trọng.
Xuyên suốt triết học phê phán, Kant phê phán những yêu sách không chính đáng của lý tính thuần túy trong việc muốn biết cái tuyệt đối. Những ý niệm vũ trụ học có thể yêu sách muốn hình dung “sự trọn vẹn tuyệt đối” của sự tổ hợp [của cái toàn bộ được mang lại của mọi hiện tượng], của sự phân chia [một cái toàn bộ được mang lại trong hiện tượng], của sự ra đời [của một hiện tượng nói chung] và của sự phụ thuộc về sự tồn tại của cái có thể biến đổi trong hiện tượng (A 415/ 443), nhưng qua sự nghiên cứu kĩ lưỡng một cách phê phán lại tỏ ra là chỉ mang lại những nghịch lý. Nói chung, Kant cố gắng không gán cho “tuyệt đối” bất kì một nội dung mang tính bản thể nào; ông không sử dụng thuật ngữ này để định tính chất cho vật tự thân hoặc cho mệnh lệnh nhất quyết. Tuy nhiên, có lúc ông thực sự đã quy đến “sự tự khởi tuyệt đối (Tự do)” (A 418/ 446), khi ông gợi ý trong ngoặc đon đến một sự đồng nhất hóa mang tính bản thể giữa cái tuyệt đối và sự tự do.
Tư tưởng được gợi ý trong ngoặc đon này đã được Fichte và Schelling tiếp bước, hai ông đã phát triển các triết học về cái tuyệt đối có tính bản thể dựa trên “cái Tôi” của chủ thể nhận thức và hành động và “cái nó” của tự nhiên và lịch sử (xem Fichte, 1794, đặc biệt là Phần 1, §1); Schelling, 1856, đặc biệt là “Die Naturphilosophie” [Triết học Tự nhiên]). Trái lại, triết học của Hegel về tinh thần tuyệt đối lại phá vỡ sự đối lập cái tuyệt đối theo nghĩa tính từ với cái tuyệt đối mang tính bản thể, và suy tưởng lại cái tuyệt đối như mang tính quá trình (Hegel, 1807 [Hiện tượng học Tinh thần], đặc biệt là “Lời tựa” và “Lời dẫn nhập”; 1812 [Khoa học Logic], đặc biệt là “Hiện Thực” và “Ỷ niệm Tuyệt đối”). Tuy nhiên, việc quy giảm thành cái tuyệt đối mang tính bản thể này đã bị Schopenhauer (xem 1813, tr. 59-62), và các hình thức thuyết duy tâm châu Âu và Mỹ thống trị trong thế kỷ XIX phê phán. Những nỗ lực của Heidegger nhằm giải cấu sự đối lập giữa cái tuyệt đối theo nghĩa tính từ và cái tuyệt đối mang tính bản thể trong cách đọc Hegel và Schelling của ông suốt thập niên 1930 (Heidegger, 1930, 1936) đã góp phần vào một sự tái-xác nhận đưong đại về cái tuyệt đối trong triết học, thần học và lý thuyết xã hội (xem Derrida, 1974 [G/fls]; Rose, 1981 [Hegel contra Sociology (Hegel chống với Xã hội học)]; Milbank [Theology and Social Theory: Beyond Secular Reason (Thần học và Lý thuyết xã hội: vượt khỏi Lý tính thế tục)], 1990).
Hoàng Phú Phương dịch