Commercial policy
chính sách Thương mại
Một thuật ngữ giờ đây trở thành lạc hậu và trong sử dụng thông thường đã được thay thế bằng trade policy và chúng đã tồn tại cùng nhau trong nhiều thập kỷ. Chính sách Thương mại bao gồm các bộ luật, các chính sách và các tập quán của chính phủ có ảnh hư ởng đến Thương mại. Chính sách Thương mại trong thời hiện đại bao gồm phạm vi rộng lớn hơn gồm cả các loại dịch vụ, các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại, v.v... và các vấn đề Thương mại mới. Những nhà soạn thảo Hiệp định GATT coi chính sách Thương mại là những chủ đề đượcnêu trong Phần II của GATT, cùng với các vấn đề khác, bao gồm đãi ngộ quốc gia, chống phá giá và thuế đối kháng, định giá hải quan, các lệ phí và thủ tục xuất nhập khẩu, mã hiệu xuất xứ, hạn chế định lư ợng, trợ cấp, các doanh nghiệp Thương mại quốc doanh, các biện pháp tự vệ, tham vấn và giải quyết tranh chấp. Cũng cần lư u ý rằng, ví dụ, Đề mục VII của Hiệp ước Maastricht có lấy dòng chữ " chính sách Thương mại chung" của Hiệp ước Rome mà trong Điều 113 đã định nghĩa là " trên cơ sở những nguyên tắc thống nhất, đặc biệt đối với những thay đổi trong thuế suất, là việc ký kết hiệp định thuế quan và Thương mại, việc đạt đượcsự thống nhất trong các biện pháp tự do hoá, chính sách xuất khẩu và các biện pháp để bảo hộ Thương mại nhưcác biện pháp đượcthực hiện trong trường hợp phá giá và trợ giá" . Xem thêm Common Commercial Policy.
Trade policy
Chính sách Thương mại
Một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm luật lệ, quy định, hiệp định quốc tế và các quan điểm đàm phán đượcchính phủ thông qua để đạt đượcmở cửa thị trường hợp pháp cho các công ty trong nư ớc. Chính sách Thương mại cũng nhằm xây dựng luật lệ giúp cho các công ty có khả năng dự đoán trước và đảm bảo an toàn cho mình. Thành phần chính của chính sách Thương mại là đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, tính công khai và trao đổi ư u đãi. Để phát huy đượchiệu lực, chính sách Thương mại cần có sự hỗ trợ của chính sách trong nước để khuyến khích đổi mới và nâng cao tính cạnh tranh quốc tế, và cần có độ linh hoạt và thực dụng trong quá trình thực hiện. Theo quan sát của Hoekman và Kostecke (1995), chính sách Thương mại là chính sách quốc gia dùng để phân biệt đối xử đối với các nhà sản xuất nước ngoài. Nói cách khác, chính sách Thương mại đại diện cho quy mô quốc tế của chính sách quốc gia vì lý do nội địa (Carchichael 1986). Xem thêm commercial policy và common commercial policy.