Nguyên tắc của giác tính thuần túy (các) [Đức; Grundsätze des reinen Verstandes; Anh: principles of pure understanding]
Xem thêm: Loại suy của kinh nghiệm (các), Dự đoán của trỉ giác (các), tiên đề của trực quan (các), định đề của tư duy thường nghiệm (các),
“Các nguyên tắc của giác tính thuần túy” được bàn thảo ở Chương 2 phần “Học thuyết siêu nghiệm về phán đoán” (hay “Phân tích pháp các nguyên tắc”) trong PPLTTT. Kant mở đầu rằng các nguyên tắc chứa đựng trong bản thân chúng những cơ sở cho các phán đoán khác, trong khi bản thân chúng không được rút ra từ một nguyên tắc cao hơn (PPLTTT A149/B 188). Một nguyên tắc là khó chứng minh bởi nó có “đặc điểm riêng là: vừa làm cơ sở cho chứng minh về khả thể của nó, đó là kinh nghiệm, có thể có được; vừa luôn phải lấy kinh nghiệm này làm tiền đề tiên quyết” (PPLTTT A 737/B 765). Sự chứng minh một nguyên tắc, một công việc “thực sự cần thiết”, phải được xác lập trên cơ sở của kinh nghiệm mà nó có thể làm cho khả hữu, và trong trường hợp này là “nhận thức về một đối tượng nói chung” (A 149/B 188).
Kant phân biệt những nguyên tắc có quan hệ với các phạm trù và những nguyên tắc có quan hệ với trực quan. Cái sau gồm những nguyên tắc như “không gian và thời gian là những điều kiện khả thể cho mọi sự vật xuất hiện như là những hiện tượng” (PPLTTT A 149/B 188). Rồi ông phân biệt những nguyên tắc của các phán đoán phân tích và những nguyên tắc của các phán đoán tổng hợp, phát hiện ra hai nguyên tắc nền tảng khác nhau cho mỗi loại phán đoán. Nguyên tắc của các phán đoán phân tích chính là nguyên tắc [loại trừ] mâu thuẫn có vai trò như là nguyên tắc nền tảng của bản thể học/lôgíc học Wolff; đối với Kant, “nó là của môn Logic” và là một “tiêu chuẩn phổ biến nhưng thuần túy tiêu cực của chân lý” (PPLTTT, A 151/B 190). Nó chỉ thuộc về sự sử dụng có giới hạn trong các phán đoán tổng hợp của môn Logic học siêu nghiệm, là môn cũng có một đặc điểm bản thể học. Để biện minh những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm, ta cần phải phát hiện một nguyên tắc (Grundsatz) hay những nguyên tắc (Grundsätze), hay những nguyên tắc cơ bản, có thể mang đến cho một khái niệm một đối tượng, hay theo một nghĩa tổng quát, có khả năng nối kết logic học với bản thể học.
Kant nhận thấy nguyên tắc lôgíc-bản thể học này trong phát biểu rằng “những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm” (PPLTTT, A 158/B 197). Nói cách khác, những điều kiện nào khiến cho kinh nghiệm là khả hữu thì chính chúng cũng làm cho những đối tượng của kinh nghiệm là khả hữu. Kant nói cụ thể những điều kiện này là những điều kiện của (a) “những điều kiện mô thức của trực quan tiên nghiệm”, (b) “sự tổng hợp của trí tưởng tượng” và (c) “sự thống nhất tất yếu của tổng hợp ấy trong một Thông giác siêu nghiệm” (sđd). Điều kiện (a) quy chiếu đến kinh nghiệm con người về không gian và thời gian, điều kiện (b) quy chiếu đến sự trình bày về các đối tượng của trực quan cho giác tính; và điều kiện (c) quy chiếu đến các phạm trù của giác tính. Về cơ bản, các nguyên tắc phát biểu rằng sự nối kết của ba điều kiện này nhất thiết phải cấu tạo một kinh nghiệm rõ ràng cũng như cấu tạo những đối tượng của kinh nghiệm, hay các hiện tượng xuất hiện ra trong không gian và thời gian.
Vì có nhiều phạm trù nên cũng có nhiều nguyên tắc; thực vậy, có một nhóm các nguyên tắc tương ứng với một nhóm các phạm trù. Các phạm trù về lượng tương ứng với “các tiên đề của trực quan”; các phạm trù về chất tương ứng với “các dự đoán của tri giác”; các phạm trù về tương quan tương ứng với “các loại suy của kinh nghiệm”; và các phạm trù về tình thái tương ứng với “các định đề của tư duy thường nghiệm”. Kinh nghiệm của chúng ta không đơn thuần là trực quan hoặc trực tiếp là phạm trù, mà nối kết trực quan, sự trình bày hình ảnh và các phạm trù. Các nguyên tắc nói chung xác định những sự vật xuất hiện trong thời gian như thế nào, hay các nhóm lượng, chất, tương quan, tình thái của phạm trù được thỏa ứng với kinh nghiệm bị giới hạn trong không-thời gian của một tồn tại hữu hạn (con người).
Hệ thống các nguyên tắc là kết quả của việc Kant đã xử lý lại di sản bản thể học của triết học kinh viện vốn đã được Wolff đưa vào trong “phân tích pháp siêu nghiệm”. Trong quãng “thập niên im lặng” những năm 1770, Kant âm thầm giải quyết vấn đề về việc chuyển đổi những thuộc tính bản thể học truyền thống thành những nguyên tắc thời gian trong “Phân tích pháp siêu nghiệm” mới. Thay vì những thuộc tính bản thể học về lượng như nhất thể và đa thể, Kant đưa ra nguyên tắc về đại lượng; thay vì những thuộc tính bản thể học về chất là tồn tại và hư vô, ông đưa ra nguyên tắc về cường độ. Cũng như vậy, ông thay thế các tương quan bản thể học có hiệu lực vĩnh hằng như bản thể và tùy thể, nguyên nhân và kết quả, và cộng đồng tương tác bằng các nguyên tắc đặc thù về mặt thời gian về sự tương quan trong “Các loại suy của kinh nghiệm”, cũng như ông đã thay thế những thuộc tính tình thái của khả năng, hiện thực và tất yếu.
Sự phát triển của Kant về các nguyên tắc là một trong những thành tích hiển hách nhất của ông và là nơi tinh thần triệt để triết học của ông hầu hết được tuyên bố và trở nên hiển nhiên. Điều đáng tiếc là, trừ lối đọc bản thể học về Kant do Heidegger (1927) và Heimsoeth (1956) khởi xướng ra, sự phô diễn luận chứng triết học đẹp mắt trong các nguyên tắc đã bị sự bàn luận về sự diễn dịch kém sắc sảo về các phạm trù làm cho mờ nhạt đi.
Đinh Hồng Phúc dịch