TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

phật

Phật

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh
Từ Điển Tâm Lý
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển Tầm Nguyên
phật đà

phật đà

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

phật

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

bụt

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

bạt

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Anh

phật

Buddha

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh
phật đà

buddha

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Đức

phật

der Buddha

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

Buddha

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

phật đà,phật,bụt,bạt

buddha

Từ điển Tầm Nguyên

Phật

Theo Hán văn thì chữ Phật gồm có: Một bên chữ nhân là người, và một bên chữ phất là chẳng. Một người chẳng biết gì đến thế tục. Suy chữ nọ cho chơn, chữ Phật là " phất tri nhân sự" . Sãi Vãi

Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

Phật

Buddha m; dạo Phật Buddhismus m.

Từ Điển Tâm Lý

PHẬT

[VI] PHẬT

[FR]

[EN]

[VI] Nói một cách rất sơ lược, quan điểm Phật học về tâm lý có thể tóm lại như sau: Con người là do sự tập hợp của năm yếu tố: sắc, thụ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn). Sắc là phần hình hài do tứ đại là: địa, thủy, hỏa, phong kết thành như mọi vật khác; thụ là do tiếp nhận những mối kích thích của ngoại cảnh mà có cảm giác cảm xúc, có yêu có ghét, tưởng là suy nghĩ, nhớ lại; hành là hành động, tìm tác động lên sự vật; thức là hiểu biết, do thụ và tưởng mà có. Một bên là thân (tức hình sắc), một bên là tâm, tức thụ tưởng hành thức, kết hợp thành cái ngã (ta), nhưng cái ngã này biến hóa, rồi tiêu tan đi, hợp hợp tan tan, vô thường vô định, không phải là chân ngã, vì thế mới nói đến là vô ngã. Cảm nhận ngoại cảnh là do ngũ căn: mắt thấy sắc, tai nghe thanh, mũi cảm được mùi (hương), lưỡi nếm các vị và sờ mó (xúc). Từ những cảm giác ấy mà suy nghĩ, ham thích là tư, và có ý thức về ta về vật là kiến, và xuất hiện thêm một căn là ý. Tất cả kếp hợp lại thành một cá vật, tức danh sắc, chìm vào trong luồng biến hóa của vũ trụ; lúc tiếp thụ mọi điều của ngoại cảnh không rõ đó là hư vọng. Sự mê muội ấy là vô minh, dẫn đến ham muốn yêu thích, tức là á, rồi cố ôm lấy sự sống, tứ là thủ; đó là ba mối nhân duyên đầu gây ra cái hành và cái hữu, hai mối này gây ra cái nghiệp; vô minh, ái, thủ hợp thành cái hoặc, cộng với cái nghiệp, tạo ra những cái quả là: thức, lục nhập, xúc, thụ, sinh, lão – tử. (Lục nhập là do lục căn đã nói ở trên). Tóm lại từ vô minh qua cái hành mà sinh ra nghiệp, rồi cứ chìm trong luồng biến hóa cho đến lúc giác ngộ mới giải thoát. Muốn giải thoát phải qua một quá trình: giới, định, tuệ. Giới là giới luật, tự răn mình, từ bỏ ham thích, định là giữ tâm ý cho vững, tuệ là sáng suốt phân biệt thực tướng của sự vật, hiểu rõ nhân quả.

Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

Phật

[VI] Phật

[DE] der Buddha

[EN] Buddha