Thuộc địa hoá thế giới đời sống (sự) [Đức: Kolonialisierung der Lebenswelt; Anh: Colonisation of the lifeworld]
Tiến trình qua đó tự do cá nhân bị làm suy yếu ở những xã hội phức hợp hơn, khi những tiến trình xã hội ở quy mô lớn ngày càng mang tính tự trị và hạn chế hành động của những người lệ thuộc vào chúng. Theo thuật ngữ của Habermas, đây là quá trình khi xã hội với tư cách là một ‘hệ thống/system’ xâm nhập vào xã hội với tư cách ‘thế giới đời sống/lifeworld’. Habermas phát triển ý niệm này trong The Theory of Communicative Action (1984a & 1987)/Lý thuyết về hành động giao tiếp, đặc biệt là để bổ cứu cho những thiếu sót ông thấy trong khi nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống và thế giới đời sống được trình bày trong Legitimation Crisis (1976b)/Sự khủng hoảng về hợp thức hoá hay về sự chính đáng.
Sự thuộc địa hoá có thể xem là một hệ quả không mong muốn của việc gia tăng tính phức hợp trong các xã hội, và đó là những vấn đề có mặt trong việc tổ chức và giữ ổn định xã hội. Habermas cho rằng, một xã hội quy mô nhỏ có thể được tổ chức chủ yếu thông qua các năng lực xã hội thường ngày của những người sống trong nó, và quan trọng hơn cả là thông qua năng lực giao tiếp một cách có ý nghĩa với nhau. Nếu cá nhân tôi biết, ít nhất với tư cách là người quen, người mà tôi thường gặp gỡ, thì nói chung tôi có thể làm xong một số chuyện bằng cách thương lượng với những người này. Tôi sẽ biết người có các kỹ năng riêng biệt hoặc những nguồn lực mà tôi cần; tôi sẽ biết cách để thương thuyết với họ hoặc nếu không thì thuyết phục họ cho tôi tiếp cận với những nguồn lực đó; tôi sẽ có khả năng tạo ra những sửa đổi nếu có điều gì đó là sai lầm. Ở đây tôi sẽ sử dụng loại năng lực giao tiếp mà Habermas đã tìm cách phân tích trong đề án về thuyết dụng hành phổ quát/universal pragmatics.
Các vấn đề bắt đầu xuất hiện khi dân số lớn hơn, và khi loại dự án mà tôi muốn tham gia sẽ trở nên phức hợp hơn. Tôi có khả năng sử dụng năng lực giao tiếp để chiếc xuồng của tôi được sửa chữa, hoặc tranh thủ sự giúp đỡ trong cuộc đi câu cá của mình, nhưng đó không phải là tất cả những gì tôi cần để giúp tôi đưa một tên lửa lên mặt trăng. Những dự án khoa học phức hợp (và cả những dự án chính trị, chẳng hạn như việc xây dựng các đế quốc hay tổ chức và duy trì hoạt động của hệ thống chăm sóc sức khoẻ tầm quốc gia) sẽ cần sự phối hợp hành động của những người không hề biết nhau, và thực tế họ có thể không bao giờ gặp mặt. Các nguồn lực sẽ phải được kết hợp cùng nhau trên những không gian lớn và tại thời điểm khác nhau. Trong thuật ngữ của Habermas, những dự án phức tạp như vậy sẽ 'làm quá tải’ (overburden) các nguồn lực giao tiếp của người dân, và vì vậy cần tìm ra một số hình thức của ‘cơ chế cứu trợ’ (relief mechanism) (1987, tr. 181).
Những cơ chế cứu trợ thường dựa trên việc sử dụng hành động công cụ hơn là hành động giao tiếp. Điều đó có nghĩa là để phối hợp trong các dự án quy mô lớn, người ta chấm dứt quan hệ với nhau như chỉ là những con người có năng lực giao tiếp, và thay vào đó họ coi nhau như phương tiện đạt một mục đích. Trong khi ở hành động giao tiếp, tôi thoả thuận với người cộng tác tiềm tàng của mình, giải đáp những nghi ngờ, chất vấn của họ và biện hộ cho niềm tin của tôi vào giá trị của dự án, thì ở trong hành động công cụ (hay đúng hơn là hành động chiến lược/strategic), tôi xem xét đến người khác theo những phản ứng ít nhiều có thể dự đoán trước đối với những kích thích nhất định. Điều này tức là tôi biết rằng nếu tôi thực hiện vài hành động nào đó, thì họ sẽ phản ứng theo một cách có thể đoán trước. Thực tế, tôi xem hành động/action của họ chỉ như là hành vi đơn thuần mà không băn khoăn về những lý do chắc chắn thúc đẩy nó (cũng như tôi biết rằng, với một chuyển động thích hợp của đôi chân mình, tôi có thể khiến con ngựa tôi đang cưỡi chuyển từ chạy nước kiệu sang chạy nước kiệu nhỏ). Tôi không cần quan tâm đến các lý do khiến những người này hành động theo cái cách mà họ làm, miễn là họ hành động như tôi mong chờ. Vẻ ngoài phi nhân tính của hình ảnh này có thể được giảm nhẹ đôi chút nhờ việc xem xét nhiều hơn đến các chi tiết của nó.
Cái mà Habermas đang xem xét bằng cách cầu đến hành động công cụ là vai trò của các hệ thống, và sự khác biệt giữa sự hội nhập xã hội/social integration và sự hội nhập hệ thống/system integration, trong phạm vi các xã hội phức hợp. Sự hội nhập xã hội, ở dạng một cách thức tổ chức và sắp đặt xã hội, sẽ đạt được thông qua năng lực giao tiếp. Các xã hội được hội nhập về mặt hệ thống ngay khi có nhiều ám hiệu (cue) được công nhận, thông qua các hàm chỉ này người ta có thể tổ chức hành động của họ mà không viện đến sự giao tiếp. Habermas xác định hai ám hiệu quan trọng hơn cả là tiền bạc/money và quyền lực/power. Chúng là những ví dụ của cái mà ông gọi là phương tiện điều hướng phi biểu trưng /non-symbolic steering media. Để giải thích điều này, chúng ta có thể xét một cái chợ đơn giản. Tôi đi dọc khu chợ và muốn mua những thực phẩm cho một tuần. Tôi nhìn qua các gian hàng khác nhau, và xem xét các sản phẩm có sẵn. Quan trọng hơn cả, tôi cũng nhìn giá các món hàng. Tôi sẽ mua những món hàng gây ấn tượng cho tôi như là những thứ có giá (tiền tệ) tốt nhất. Khi thực hiện việc mua hàng, tôi chỉ cần chỉ tay hoặc cầm lên những thứ rau quả tôi muốn, trả đủ tiền và chờ trả lại tiền thừa. Tôi không cần trao đổi một lời nào với các chủ gian hàng. Tôi không cần quan tâm tại sao họ thành chủ gian hàng và họ có thích công việc của họ không. Tương tự, họ không cần quan tâm tại sao tôi muốn quá nhiều quả kiwi, miễn là tôi trả đủ tiền. Những người chủ gian hàng và tôi phối hợp mỗi hành động của chúng tôi thông qua những phản ứng với ám hiệu mà giá trị tiền tệ mang đến cho chúng tôi và chúng tôi hành động theo cách có thể dự đoán được. Nhưng, cũng chú ý rằng, việc mua hàng của tôi không chỉ thành công trong việc phối hợp những hành động của tôi với các chủ gian hàng. Nếu các chủ gian hàng không trồng rau quả của chính họ thì tôi còn phối hợp hành động của tôi với nông dân, những người tôi không bao giờ gặp (họ có thể sống cách xa tôi hàng nghìn dặm, và nói một ngôn ngữ mà tôi không hiểu).
Chính trong cách mà tiền tệ làm cho nền kinh tế vận hành trôi chảy với tư cách là một hệ thống, khi ấy nó có thể phối hợp (thông qua những liên kết mà nó thiết lập giữa thị trường lao động, nguyên liệu và hàng hoá sản xuất) những dự án có độ phức hợp cao, bao gồm cả việc lên mặt trăng. Việc đưa người lên mặt trăng theo một chương trình được tổ chức và được cấp tiền bởi chính phủ cũng chẳng có gì khác. Nguyên liệu, linh kiện và những dịch vụ của các nhà khoa học và các nhà kỹ thuật vẫn phải đạt được thông qua các thị trường và trả theo giá hiện hành. Quyền lực cũng vận hành tương tự, trong chừng mực những người có quyền lực chính đáng có thể buộc những người khác cư xử theo một phương cách nhất định (dù đó là hình thức của những Pharaōn bắt những nô lệ xây dựng các kim tự tháp, hay những quan toà tuyên thời hạn tù cho những tội phạm bị kết án), đồng thời có thể giao quyền lực cho những người khác, vì thế bản thân những cấp dưới có thể kiểm soát những người khác nữa (như đại uý chỉ huy trung uý, và trung uý chỉ huy trung sĩ) (Habermas, 1987, 268–270). Mặt khác, sự giao tiếp là điều không cần đến, miễn là chuỗi quyền lực không bị chất vấn, và cấp dưới vẫn phục tùng trật tự như kỳ vọng.
Đến chỗ này, miêu tả về mối quan hệ giữa hệ thống và thế giới đời sống tỏ ra có lợi. Thế giới đời sống mang lại những mối quan hệ phong phú và đầy ý nghĩa với một số ít người khác, trong khi hệ thống, nhìn chung mang đến cho ta những nguồn lực để tạo ra ý nghĩa cuộc sống, sẽ tạo ra khả năng to lớn cho chúng ta trong việc đơn giản hoá sự hiểu biết về hoàn cảnh hiện tại của mình, và bằng cách đó cho phép ta tham dự vào những hoạt động xã hội phức tạp. Vấn đề thuộc địa hoá thế giới đời sống xuất hiện khi hệ thống ngừng tồn tại một cách giản đơn như là phương tiện đạt mục đích, và vì vậy, như là cái gì kỳ cùng có thể được thế giới đời sống kiểm soát, trái lại, hệ thống trở thành một mục đích tự thân.
Hành động trong phạm vi một hệ thống bị chi phối bởi một bộ các quy tắc được so sánh tương đối đơn giản với các quy tắc chi phối hành động giao tiếp. Trong khi sự giao tiếp của tôi với một người bạn có thể bao phủ nhiều chủ đề, và thiết lập đủ loại quan hệ khác nhau giữa chúng tôi, thì quan hệ xã hội của tôi với ông chủ phần lớn bị hạn chế bởi những quy ước và quy tắc rõ ràng của hợp đồng lao động. Việc ông chủ có thể là bạn của tôi cũng không liên quan gì đến vấn đề này. Quyền lực chi phối quan hệ của tôi với ông chủ, ở tư cách là ông chủ của tôi, sẽ đơn giản hoá sự tương tác giữa chúng tôi. Điều này đưa đến việc các hệ thống, dù là hệ thống kinh tế hay chính trị, như các bộ phận hành chính hay các cơ quan chính phủ, sẽ được thiết lập bằng các quy tắc tương đối đơn giản vốn chi phối tác động qua lại giữa người dân với nhau. Các quy tắc chi phối hệ thống sẽ có độ nhất quán cao hơn, có nghĩa là người ta phần lớn sẽ cố kết với nhau, làm nảy sinh tương đối ít những mệnh lệnh xung đột với nhau cho những người tuân thủ chúng. Vì thế, hệ thống có logic của riêng nó. Nó thực thi các vấn đề theo một cách nhất định, và phù hợp với những nguyên lý rõ ràng. Chính vì chúng rộng lớn và phức hợp, những hệ thống lâu đời sẽ có một tính ì nhất định được truyền vào bên trong mình. Thật không dễ để thay đổi cách thức mà theo đó chúng thực hiện mọi sự. Đây thực sự là chỗ khởi sự các vấn đề. Một khi những xã hội phức hợp được tổ chức thông qua những hệ thống, logic tự trị của những hệ thống này sẽ bắt đầu chỉ đạo những gì có thể và làm sao để đạt được mọi sự ở trong phạm vi xã hội đó.
Chúng ta có thể xem xét ví dụ sau. Một chính phủ quyết định rằng những tiêu chuẩn giáo dục trong các trường học đang xuống dốc. Quá nhiều trẻ em từ những nhóm bên lề xã hội đang rời trường học mà không có được những phẩm chất chuyên môn thích đáng. Điều gì đó phải được thực thi rõ ràng là một giải pháp tuyệt vời. Cứ cho rằng các trường học là một phần của hệ thống chính trị, dù thế nào thì việc làm đó phải được thực hiện thông qua những cấu trúc hành chính hiện hữu. Những cấu trúc này có thể được điều chỉnh ở một vài chỗ, nhưng cấu trúc tổng thể không thể được thiết kế lại từ con số không. Vì thế, chính phủ yêu cầu các lãnh đạo trường học hãy giám sát thành tích đạt được của những nhóm học sinh nhất định vốn nằm trong nhóm mục tiêu. Trong khi những nguồn lực sẽ được đổ thêm vào để hỗ trợ việc dạy những nhóm này, thì tư duy công cụ của hệ thống vốn luôn đòi hỏi những nguồn lực ấy phải được xem như được sử dụng có ích và có hiệu quả cao. Vì thế cần có sự giám sát thành tích. Nhưng ở đây cũng đã có nhiều vấn đề xảy ra.
Trước hết, dạy học lẽ ra phải là một ví dụ tốt nhất cho hành động giao tiếp, ở đó học sinh được khuyến khích tra hỏi về các ý tưởng, và biện minh cho những lập luận của bản thân bằng cách dựa vào lý trí. Như thế, lớp học là một nơi có sự tương tác xã hội phong phú và phức tạp, đầy những ý nghĩa và sắc thái tinh tế. Nhưng thật không may, cơ chế giám sát của bộ máy hành chính thường yêu cầu những dữ liệu được đơn giản hoá cao độ. Do hợp với một hệ thống rộng lớn được tổ chức thông qua những trung gian phi biểu trưng của quyền lực, trải nghiệm về lớp học ở mặt biểu trưng, phong phú theo lối định tính, hoặc có ý nghĩa lại bị phiên dịch thành những dữ liệu đơn giản hoá và thường được định lượng. Khả năng tranh cãi về những chương trình nguyên thuỷ của chính phủ đã đi đến chỗ phải thoả hiệp. Người ta bị đối diện bởi dữ liệu định lượng, được thiết kế cho sự đánh giá mang tính công cụ, không phải là những kinh nghiệm có ý nghĩa vốn có thể đóng góp cho sự thảo luận (xem: discourse/diễn ngôn).
Thứ hai, mặc dù chính sách nguyên thuỷ của chính phủ theo đuổi việc cải thiện các tiêu chuẩn giáo dục, nhưng hệ thống giám sát vốn được du nhập vào nhà trường là cái mà giáo viên phải đáp ứng. Nhiệm vụ trước mắt của họ là có một bản báo cáo tốt. Bởi vì họ bị đối xử theo lối công cụ (trong chừng mực hệ thống giám sát buộc họ phải thay đổi phương pháp giảng dạy), bản thân sự giảng dạy của các giáo viên vì vậy có nguy cơ cũng trở nên có tính công cụ. Tương tác giao tiếp nguyên thuỷ giữa giáo viên và học sinh bị thay thế bởi hành vi thao túng của giáo viên đối với học sinh để đạt được kết quả tốt cho quá trình giám sát. Thảo luận bị thay thế bằng sự nhồi nhét. Những nhiệm vụ phức tạp đòi hỏi thời gian và năng lượng bị thay thế bằng những nhiệm vụ tương đối đơn giản vốn được bảo đảm nhằm tạo nên những loại kết quả mà sự giám sát yêu cầu.
Trên đây là quan điểm cốt lõi của Habermas. Việc sử dụng các hệ thống trong xã hội hiện đại là cần thiết, và quả thực đạt đến cấp độ lợi ích cao. Nhưng, với tư cách là các hệ thống kinh tế và hành chính càng ngày càng xâm phạm vào đời sống thường nhật (ví dụ như khi chính phủ tăng cường điều tiết các hoạt động công và tư, và khi các giá trị kinh tế được đặt lên trên tất cả mọi hoạt động), thì thuyết công cụ vốn cố hữu trong hoạt động mang tính hệ thống bắt đầu xói mòn các kỹ năng giao tiếp vốn được đặt nền tảng trong thế giới đời sống, và phục vụ việc duy trì thế giới này. Những ý định tốt có thể bị thoái hoá bởi hệ thống, và khả năng thách thức hệ thống, thông qua giao tiếp hơn là thông qua lý tính công cụ, bị kiềm chế.
Đọc thêm: Ingram, 1987; White, 1987; Brand, 1990; Honneth & Joas 1991; Hahn, 2000, tr. 1–172; Heath 2001