Nhân cách/Nhân thân [Đức: Person; Anh: person]
Xem thêm: Nhân tính, Đồng nhất (tính), Võng luận, Tâm lý học, Chủ thể,
Trong võng luận thứ ba về tính nhân cách trong Phê phán lý tính thuần túy, Kant định nghĩa một nhân cách như “cái gì có ý thức về sự đồng nhất số lượng của bản ngã mình trong những thời gian khác nhau” (A361).
Ông lập luận rằng thật là sai lầm khi suy luận từ tính thống nhất của chủ thể tư duy thành sự hiện hữu của tính nhân cách trường tồn qua thời gian. Bên trong những ranh giới của triết học lý thuyết, chỉ duy “tính nhân cách tâm lý học” mới có thể chính đáng là một đối tượng của nhận thức, tức là “khả năng ý thức về sự đồng nhất của một người trong những điều kiện khác nhau của sự hiện hữu của người ấy” (SHHĐL, tr. 223, tr. 50). Tuy nhiên, quan niệm về nhân cách “là cần thiết cho sự sử dụng thực hành [đạo đức]” (PPLTTT A365). Ở đó, tính nhân cách là yếu tố thứ ba và cao nhất của “những yếu tố trong một tính cách cố định và định mệnh của con người”, theo sau thú tính và nhân tính. Nó là một tố chất có từ trước (predisposition) để trở thành “một hữu thể có lý tính và đồng thời là một hữu thể có thể quy kết trách nhiệm được” (TG tr. 26, tr. 21). Kant lập luận rằng một hữu thể có lý tính thì không tất yếu quy định ý chí của mình chỉ bằng việc đơn thuẫn hình dung cho chính mình sự phù hợp của các châm ngôn với các quy luật luân lý. Trong khi đó, một hữu thể có lý tính và có thể quy trách nhiệm lại sở hữu “sự tôn kính quy luật luân lý như trong chính mình (có) một động cơ đầy đủ của ý chí” (TG tr. 27, tr. 23). Từ tiền đề về tính có thể quy kết trách nhiệm dẫn đến hai hệ luận thực hành: hệ luận thứ nhất là định đề thực hành về sự bất tử của linh hồn (PPLTTH tr. 123, tr. 127); hệ luận thứ hai cho rằng “một nhân cách không phục tùng các quy luật nào khác ngoài những quy luật nhân cách ấy tạo ra cho chính mình” (SHHĐL tr. 223, tr. 50). Vì thế, để một nhân cách có thể được quy kết trách nhiệm một cách đúng đắn, nhân cách phải được định đề hóa như có cả tính bất tử lẫn tính tự trị.
Thánh Pháp dịch