Đồng nhất (sự, tính) [Đức: Identität; Anh: identity]
Xem thêm: Thông giác, Khái niệm phản tư, Khác biệt, Võng luận, Tâm lý học, Chủ thể, Nhất thể/Thống nhất,
Khái niệm về sự đồng nhất giữ một vai trò đa dạng và phức hợp trong triết học của Kant. Trong các trước tác tiền-phê phán, sự đồng nhất được hiểu như là “nguyên tắc logic tối cao trong hệ thống cấp bậc của các chân lý” và trong nguyên tắc bản thể học gây tranh cãi của Leibniz về “sự đồng nhất của những cái bất khả phân biệt”. Trong PPLTTT, cùng với sự dị biệt, nó là một trong những khái niệm phản tư, và như bản sao tiền-phạm trù của phạm trù “nhất thể”. Theo cách hiểu sau, nó đảm bảo cho sự đồng nhất “logic”, vượt khỏi cấp độ phạm trù, của “cái Tôi” vốn không thể thiếu đối với kinh nghiệm.
Trong NTĐT, Kant đi từ tuyên bố rằng “mọi lập luận rốt cuộc là nhằm phát hiện sự đồng nhất giữa thuộc từ và chủ từ” (tr. 390, tr. 9) đến việc đề xuất “nguyên tắc đồng nhất”, tức nguyên tắc phát biểu rằng “bất kỳ cái gì là nó, sẽ là nó và bất kỳ cái gì không phải là nó, sẽ không là nó” (tr. 389, 7), như nguyên tắc tối cao của chân lý. Ưu tiên của ông trong giai đoạn này cho nguyên tắc đồng nhất nảy sinh từ sự đối lập của ông với nguyên tắc mâu thuẫn của trường phái Wolff, nhưng trong thời gian ông viết cuốn NTĐT (1763), ông đã không thỏa mãn với cả hai nguyên tắc hình thức ấy. Lúc đó, ông phân biệt sự đồng nhất của căn cứ và hệ luận trên phương diện logic với sự đồng nhất của nguyên nhân và kết quả trên phương diện hiện thực, khi tuyên bố rằng “căn cứ hiện thực không bao giờ là căn cứ logic, và gió không gây ra mưa nhờ vào quy tắc đồng nhất” (tr. 203, 240). Với sự phát triển này, Kant đã báo trước sự phân biệt triệt để về sau của ông giữa Logic học hình thức và Logic học siêu nghiệm.
Phương diện khác của sự đồng nhất được Kant khảo sát trong các trước tác tiền-phê phán là luật đồng nhất của những cái bất khả phân biệt của Leibniz. Trong §9 của cuốn Monadologie [Đơn Tứ Luận], Leibniz lập luận rằng không có hai thực thể nào tồn tại mà “ta không thể tìm thấy một sự khác nhau bên trong hay sự khác nhau dựa trên một sự quy định nội tại” (Leibniz, 1720, tr. 62). Trong NTĐT, Kant đã tranh cãi về “tính phổ quát siêu hình học” (tr. 410, 36) của qui luật này rồi, khi ông viện đến sự khác biệt về vị trí [trên thực tế] giữa những cái không thể phân biệt như [lý do] đầy đủ để biện minh cho sự phản bác quy luật ấy. Quan niệm này về vị trí, sau này được phát triển thành mô thức không gian của trực quan của LA và PPLTTT, đánh dấu sự quy định nữa của sự đồng nhất logic, ở đây được bàn luận dựa vào “sự quy định nội tại” bằng sự quy định hiện thực của vị trí không gian.
Kant tiếp tục phê phán quy luật về những cái bất khả phân biệt trong mục ông dành nói về các khái niệm phản tư trong PPLTTT (A 260/ B 316). Đồng nhất và dị biệt là những khái niệm phản tư đóng vai trò định hướng cho phán đoán khi nói về các hiện tượng. Chúng biểu thị các đặc điểm của mô thức không gian của trực quan, chứ không phải của “vật-tự thân”. Kant cho rằng Leibniz đã xem đồng nhất và dị biệt như những đặc tính bản thể học của các sự vật chứ không như những sản phẩm của sự phản tư dựa theo những cách thức trong đó các hiện tượng được tổ chức theo không gian, thời gian và các phạm trù. Theo Kant, Leibniz đã lược bỏ những điều kiện của cảm năng và giác tính, và kết quả là đã làm cho sự đồng nhất và dị biệt trên phương diện khái niệm hay logic bị lẫn lộn với sự đồng nhất và dị biệt cảm tính hay hiện thực. Sự lược bỏ này có khả năng tạo ra những khẳng định sai lầm vốn không được chứng minh về quy luật của những cái bất khả phân biệt, như “mọi sự vật là hoàn toàn đồng nhất (numero eadem) nếu chúng không khác biệt với nhau (về chất và lượng) ở ngay trong những khái niệm [của ta] về chúng” (PPLTTT A 281/ B 337).
Trong PPLTTT, Kant hiếm khi nói đến nguyên tắc đồng nhất logic, và thực tế ông xem nguyên tắc mâu thuẫn như “nguyên tắc cao nhất của các phán đoán phân tích”. Thế nhưng, sự áp dụng logic của nguyên tắc đồng nhất vẫn là một thế đứng cốt yếu, nếu không nói là bị che đậy, trong Kiến trúc học phê phán. Điều này được thấy rõ khi Kant bàn về sự đồng nhất của chủ thể siêu nghiệm hay cái Tôi, trong đó, chủ thể siêu nghiệm đã làm nảy sinh nhiều vấn đề thú vị: nó là chủ thể nằm bên dưới và đi kèm mọi hành vi gán vị từ nhưng tự nó lại không thể đóng vai trò như một vị từ, đồng thời cũng không thể được mô tả như một bản thể. Kant khẳng định rằng đó là vì bản thể là một phạm trù, trong khi cái Tôi thì có trước sự quy định phạm trù; vì thế, cái Tôi không thể được nhận thức dựa vào các phạm trù. Nhưng, vấn đề nảy sinh là vấn đề về sự đồng nhất số lượng của chủ thể siêu nghiệm: nó phải là cái một để đảm bảo tính liên tục của các hành vi gán vị từ, nhưng nó không thể là nhất thể vì nhất thể là một phạm trù về lượng vốn không thể được áp dụng một cách chính đáng cho chủ thể siêu nghiệm.
Kant dựa vào khái niệm về sự đông nhất như đối lập với nhất thể thuộc phạm trù để đảm bảo cho chủ thể siêu nghiệm. Cái Tôi tự-ý thức của Thông giác siêu nghiệm phải “cỗ định hay ổn định” và “sự đồng nhất về sỗ lượng” này phải là sự đồng nhất “đi trước mọi kinh nghiệm và làm cho bản thân mọi kinh nghiệm có thể có được” (PPLTTT A 107). Vì, nó là “cơ sở tiên nghiệm của mọi khái niệm”, nó không thể bị quy định bởi các phạm trù như nhất thể và bản thể, và vì thế trong một đoạn văn bí hiểm, Kant rút ra “sự thống nhất của ý thức” (tức làm thế nào nó xuất hiện ra với phạm trù của ta về nhất thể) từ ý thức về “sự đồng nhất của chức năng qua đó sự thống nhất của ý thức nối kết một cách tổng hợp cái đa tạp trong một nhận thức”. Đây là “ý thức nguyên thủy và tất yếu về sự đồng nhất của chính nó đồng thời là một ý thức về sự thống nhất tổng hợp cũng có tính tất yếu như thế về mọi hiện tượng dựa theo các khái niệm, tức là dựa theo các quy luật” (PPLTTT A 108). Vì thế, sự đồng nhất của chủ thể siêu nghiệm đảm bảo sự thống nhất của ý thức của nó.
Kant cực kỳ thận trọng không gán các phẩm tính thuộc phạm trù nhất thể cho sự đồng nhất. Trong bàn luận về võng luận thứ 3 trong ấn bản PPLTTT năm 1781, Kant bác bỏ việc lập luận từ ý thức về sự đồng nhất số lượng đến khái niệm về một nhân vị. Ông nhấn mạnh rằng “sự đồng nhất của ý thức về chính tôi trong những thời gian khác nhau chỉ là một điều kiện mô thức của các ý tưởng của tôi và của sự nối kết giữa chúng, chứ không hề chứng minh sự đồng nhất số lượng của chủ thể tôi” (PPLTTT A 363). Hon nữa, sự thường tồn của sự đồng nhất qua thời gian không chỉ ra cái Tôi là một bản thể, mà tự nó là hệ luận của sự đồng nhất. Trong việc trình bày lại các võng luận trong ấn bản 2 của cuốn PPLTTT năm 1787, Kant nhấn mạnh rằng sự đồng nhất của chủ thể siêu nghiệm không thể được hòa tan thành một “bản thể đơn giản” vì điều ấy hẳn sẽ đòi hỏi nó phải trở thành một “đối tượng của trực quan” mà như thế thì các phạm trù về nhất thể và bản thể ắt sẽ có thể áp dụng được (PPLTTT 407-408). Nếu thừa nhận điều này, hẳn ta sẽ biến sự đồng nhất của chủ thể siêu nghiệm vốn làm nền tảng cho các phạm trù thành một đối tượng của các phạm trù, vì thế sẽ biến chủ thể siêu nghiệm thành một chủ thể thường nghiệm, do đó sẽ gây ra những hệ quả tai hại đối với dự án phê phán. Thay vào đó, Kant chọn việc hạn chế sự đồng nhất thành sự đồng nhất logic của một chủ thể hon là mở rộng nó thành sự đồng nhất của một bản thể tư duy và thống nhất.
Hoàng Phú Phương dịch