Chân lý [Hy Lạp: aleitheia; Latinh: veritas; Đức: Wahrheit; Anh: truth]
Xem thêm: Phân tích pháp, Hiện tượng, Xác tín (sự), Xem-là-đúng (sự), Ảo tượng,
Câu trả lời của Kant cho câu hỏi “chân lý là gì” được trình bày dựa vào “tiêu chuẩn phổ biến và chắc chắn để biết được chân lý của một nhận thức” (PPLTTT A58/ B82). Sau khi xem xét định nghĩa duy danh được xem là đương nhiên về chân lý như “sự trùng hợp của nhận thức với đối tượng của nó” (A58/ B82), ông tuyên bố rằng không thể có tiêu chuẩn phổ biến nào “có giá trị cho mọi nhận thức không phân biệt những đối tượng của chúng” (A58/ B83). Tuy nhiên, trong khi điều này là đúng với nội dung của nhận thức, thì ta có thể xác lập một tiêu chuẩn logic, tiêu cực về chân lý trong chừng mực “những quy luật phổ biến và tất yếu của giác tính” (A59/ B84) được logic học trình bày như là một điêu kiện không thể thiếu [conditio sine qua non]. Bởi lẽ, “cái gì mâu thuẫn lại với những quy luật ấy là sai” (sđd) mặc dù sự trùng hợp với những quy luật này tự nó không phải là một tiêu chuẩn đầy đủ của chân lý.
Bên trong khuôn khổ phê phán, quan niệm về “sự trùng hợp của một nhận thức với đối tượng của nó” mang một ý nghĩa mới, đặc biệt là dưới ánh sáng của tiên đề cơ sở của nó phát biểu rằng “những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm” (PPLTTT A158/ B197). Điều này có nghĩa là những điều kiện của kinh nghiệm qui định sự trùng hợp giữa nhận thức và đối tượng, hay như Kant nói, “kinh nghiệm mang lại cho ta quy luật và là nguồn suối của chân lý” (A318/ B375). Những điều kiện của kinh nghiệm bao gồm những hiện tượng được mang lại thông qua trực quan tiên nghiệm và được tổng hợp bằng những khái niệm tiên nghiệm thuần túy của giác tính. Vì thế, Kant có thể nói rằng sự tổng hợp những yếu tố này “như là nhận thức tiên nghiệm, lại chỉ có được chân lý (là sự trùng hợp với đối tượng) là khi nó không chứa đựng gì khác hon là những gì tất yếu cần thiết để mang lại sự thống nhất tổng hợp của kinh nghiệm nói chung (A158/ B197). Điều này phải bao gồm, như Kant giải thích kỹ, “những điều kiện mô thức của trực quan tiên nghiệm, sự tổng hợp của trí tưởng tượng và sự thống nhất tất yếu của tổng hợp ấy trong một Thông giác siêu nghiệm” (A158/ B197). Với lập luận này, Kant bác bỏ bất kỳ quan điểm nào theo thuyết Platon xem chân lý như là sự phù hợp giữa nhận thức với một ý niệm, đồng thời cũng bác bỏ một sự đánh đồng kiểu Platon giữa cảm năng và ảo tượng. Những hiện tượng không còn được xem như những ảo tượng nữa, mà là một yếu tố bản chất của kinh nghiệm và do đó, là của chân lý.
Bên cạnh nghiên cứu này về chân lý như là “sự phù hợp với đối tượng”, Kant cũng trình bày một chân lý được trình bày dựa theo tính giá trị hiệu lực. Trong phiên bản này, chân lý được bàn luận dựa vào “việc xem-là-đúng” hay tính giá trị hiệu lực chủ quan và khách quan của các phán đoán. Nó có ba mức độ: tư kiến, tức cái có ý thức nhưng không đầy đủ cả về mặt chủ quan lẫn khách quan; lòng tin, tức cái có ý thức chỉ đầy đủ về mặt chủ quan nhưng không đầy đủ về mặt khách quan; tri thức, tức cái đầy đủ cả hai mặt chủ quan lẫn khách quan và do đó là sự xác tín (PPTTTT A822/ B850). Tuy nhiên, quan niệm về sự đầy đủ khách quan có thể được đưa ra để bao hàm bên trong nó định nghĩa về “chân lý như sự phù hợp với đối tượng” (A58/ B82).
Hoàng Phong Tuấn dịch