TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

wahrheit

chân lý

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL

sự thật

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL

Chân

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Chân lý

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Chân thực

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Chân xác

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

sự thực

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chân lí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tính chân thật

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tính chất đúng thực tế

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều có thực

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lẽ phải

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

chân lý/sự thật

 
Từ điển triết học HEGEL

sai lầm và đúng đắn

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

wahrheit

truth

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

true

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

truthfulness

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

rightness

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

falsity and correctness

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

wahrheit

Wahrheit

 
Metzler Lexikon Philosophie
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL

Wahrhaftigkeit

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Richtigkeit

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

falschheit und richtigkeit

 
Từ điển triết học HEGEL

Pháp

wahrheit

vérité

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Chuyện cổ tích nhà Grimm

Frau Königin, Ihr seid die Schönste im Land. Da war sie zufrieden, denn sie wußte, daß der Spiegel die Wahrheit sagte.

Muôn tâu hoàng hậu, hoàng hậu chính là người đẹp nhất ở nước này.Hoàng hậu hài lòng lắm, vì mụ biết rằng gương nói thật.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

das ist die nackte Wahrheit

đó là sự thật trần trụi

die Wahrheit sagen

nói đúng sự thật

in Wahrheit

trong thực tế, thật sự.

Từ điển triết học HEGEL

Chân lý/Sự thật, Sai lầm và Đúng đắn [Đức: Wahrheit, Falschheit und Richtigkeit; Anh: truth, falsity and correctness]

Tính từ wahr (“đúng thật”/Anh: “true”) cùng gốc với từ La-tinh verus và có nghĩa nguyên thủy là “đáng tin cậy”. (Chữ “true” trong tiếng Anh cùng gốc với chữ “treu” trong tiếng Đức, cũng có nghĩa là “đáng tin cậy”, “trung thành”). Từ đó có danh từ (die) Wahrheit (“chân lý”, “sự thật”; Anh: “truth”) và tính danh từ “das Wahre” (“cái đúng thật”). Falsch, giống chữ “false” trong tiếng Anh, cùng gốc với từ La-tinh/ữ/sus, và có nghĩa nguyên thủy là “không trung thành, đáng khinh, lừa dối”. Từ đó có danh từ (die) Falschheit (“sự sai lầm”) và das Falsche (“cái sai lầm, cái không đúng thật”, Anh: “the false” V.V.). Wahr gần với “richtig”, cùng gốc với Recht và chữ La-tinh rectus (“thẳng”, “đúng đắn”) và có nghĩa nguyên thủy là “thẳng thắn”. Ngày nay, có nghĩa là “đúng đắn” (Anh: “correct”), và trùng nghĩa với “real”, “quite” trong tiếng Anh, như trong “a real (quite) success” (“một thành công thực sự”) v.v.

Wahr và Wahrheit, giống như “true” và “truth” trong tiếng Anh, không chỉ áp dụng cho lòng tin, nhận định V.V., mà cả cho sự vật, như trong “một nghệ sĩ, một người bạn đích thực/đúng thật” v.v. Cách dùng này có tiền lệ từ thời cổ đại: Plato áp dụng alẽthẽs (“đúng thật, không lừa dối”) và alẽtheia (“sự thật, chân lý, thực tại, không lừa dối”) cho sự vật, nhất là cho những gì thuộc tri thức (episteme) hon là đơn thuần thuộc tư kiến (doxa). Trong Cộng hòa, Plato cho rằng mô thức tối cao (mô thức “sự Thiện”) mang lại chân lý cho những gì được nhận thức, giống như mặt trời soi sáng những vật thể trên mặt đất. Nhưng, Aristoteles lại loại bỏ chân lý ra khỏi sự vật và chỉ dành nó cho các PHÁN ĐOÁN: một phán đoán là đúng thật nếu nó bảo cái tồn tại là tồn tại hoặc bảo cái không tồn tại là không tồn tại. Syrianus nhấn mạnh rằng “không có gì có thể là đúng hoặc sai một cách chặt chẽ, ngoại trừ ở trong sự khẳng định và phủ nhận”. Đi vào triết học kinh viện, định nghĩa này của Aristoteles trở thành adaequatio rerum et intellectus, “sự tương ứng giữa sự vật và tâm trí”. Nhưng, ý tưởng rằng sự vật cũng như phán đoán đều có thể là đúng hoặc sai lại có mặt trong Soliloquies của St. Augustino và các tác giả về sau, cùng với ý tưởng rằng Thượng Đế là đúng thật hay là Chân lý tối cao và chuyển trao chân

lý ấy cho những sự vật khác như chúng đang có. Vào thế kỷ XVIII, chân lý quan hệ mật thiết với các QUY LUẬT TƯ DUY. Một phán đoán đúng phải phù hợp với các quy luật của tư duy, nhất là với quy luật về [loại trừ] mâu thuẫn. Trong PPLTTT, A294, B350, Kant nói rằng “yếu tố hình thức của mọi chân lý là ở chỗ nhất trí với những quy luật của GIÁC TÍNH”.

Hegel dùng chữ wahr và Wahrheit theo những cách khác thường. Ông bác bỏ cách dùng của Aristoteles, và xem một phán đoán, chẳng hạn: “Hoa hồng này [là] đỏ” chỉ có thể là richtig [“đúng đắn”] chứ không phải wahr [“đúng thật”]. Ông áp dụng wahr và Wahrheit trước hết cho khái niệm và sự vật. Nhưng, ông có xu hướng tin rằng chỉ có THƯỢNG ĐỂ hay cái TUYỆT ĐỐI mới thực sự là đúng thật. Cách dùng của ông khai thác và phát triển nhiều chiều kích khác nhau trong cách dùng trước đó:

1. Hegel liên hệ cách dùng chữ wahr của ông với các cách nói như “người bạn đúng thật/đích thực”, “tác phẩm nghệ thuật đúng thật/đích thực” (BKT I, §§ 24A.2, 172A., 214A.). Theo ông, người bạn đúng thật/ đích thực là người bạn tương ứng với KHÁI NIỆM “người bạn”, và tác phẩm nghệ thuật đúng thật/đích thực tương ứng với khái niệm “tác phẩm nghệ thuật”. Nhưng, thật ra, không một thực thể HỮU HẠN nào là tương ứng hoàn toàn với khái niệm của nó. Nó vướng vào các mối quan hệ với những sự vật khác; chúng chuyển trao những đặc điểm vốn không được khái niệm của nó quy định. Vì thế, không có vật gì là “đúng thật” một cách chặt chẽ, ngoại trừ cái TOÀN BỘ, là cái không có những sự vướng mắc ngoại tại và, do đó, hoàn toàn nhất trí với khái niệm của nó. Trong Lô-gíc học, cái toàn bộ này là, hay, được thể hiện bởi Ý NIỆM tuyệt đối, trong đó khái niệm là hoàn toàn tương ứng với THựC TẠI.

2. Hegel chấp nhận quan niệm rằng cái gì đó chỉ có thể là “đúng thật” nếu nó không tự-mâu thuẫn. Nhưng, không chỉ những phán đoán, lòng tin v.v. mới có thể tự mâu thuẫn. Ngay cả Leibniz và Kant cũng đồng ý rằng một khái niệm có thể tự-mâu thuẫn, và, vì thế, là sai, xét theo tiêu chuẩn của chính nó. Một người bạn sai lầm hay một tác phẩm nghệ thuật hỏng là tự-mâu thuẫn, theo cả hai nghĩa: nó không đạt được hay “mâu thuẫn” với khái niệm của nó, và (thường, hay ít nhất) là thiếu sự nhất trí nội tại. Trong thực tế, bất kỳ thực thể hữu hạn nào, dù là sự vật hay khái niệm, đều tự-mâu thuẫn, ít ra là khi nó bị thoát ly khỏi các mối quan hệ của nó với những sự vật hay khái niệm khác. Như thế, một lần nữa, chỉ có cái toàn bộ mới là “đúng thật”, bởi cái toàn bộ thì không phải hữu hạn, nên VƯỢT BỎ những mâu thuẫn trong các bộ phận của nó.

3. Hegel cũng chấp nhận định nghĩa về chân lý như là aảaequatio rerum et intellectus, nhưng ông lại tái diễn giải định nghĩa này, chẳng hạn, như là “sự đồng nhất giữa TƯ DUY và TỒN TẠI”, hay “sự nhất trí giữa cái CHỦ QUAN và cái KHÁCH QUAN”. Nhưng, sự nhất trí hoàn toàn giữa tư duy và tồn tại không thể tìm thấy trong phán đoán, chẳng hạn, như trong: “hoa hồng này [là] đỏ”. Tư tưởng ấy của tôi về [màu sắc của] hoa hồng không thể nắm bắt chân lý toàn bộ về hoa hồng, về mùi hương của nó, V.V., nói gì đến toàn bộ chân lý về tồn tại nói chung. Đóa hồng có thể héo úa, và như thế là không phù hợp với khái niệm “hoa hồng” được tôi áp dụng cho nó; và ngay cả khi nó tươi tốt đi nữa thì, do là một thực thể hữu hạn, cũng không tương ứng với những khái niệm được tôi áp dụng cho nó. Những phán đoán thuộc loại này tiền giả định rằng tôi và tư duy của tôi là được phân biệt với những ĐỐI TƯỢNG của phán đoán, và tuy tư duy của tôi là “đúng đắn” (“richtig”/ Anh: “correct”), nó vẫn không trùng khít với đối tượng của nó. Do đó, Hegel chỉ nhìn thấy sự trùng khít này giữa tư duy và tồn tại, giữa cái chủ quan và cái khách quan ở trong Ý NIỆM tuyệt đối, tức, trước hết trong vũ trụ xét như cái toàn bộ, và khái niệm về nó, cũng như trong TƯ DUY lô-gíc, thuần túy của ta, hay trong tư duy của ta về bản thân tư duy.

4. Hegel không hề chủ trương rằng vậy ta hãy ngưng không đưa ra những phán đoán, chẳng hạn, về hoa hồng. Nhưng, ông nhấn mạnh rằng phán đoán hay MỆNH ĐỂ không phải là hình thức thích hợp cho việc tư duy về những gì là hoàn toàn đúng thật, như về Thượng Đế, về cái tuyệt đối, ý niệm, TINH THẨN v.v. Một trong những lý do của điều này là: hình thức phán đoán ngụ ý rằng chủ ngữ của phán đoán là một sự VẬT, một cơ chất (substratum) mang theo nhiều thuộc tính vốn không nối kết với nhau một cách nội tại. Nhưng, cho dù hoa hồng là một vật thuộc loại này đi nữa, thì cái tuyệt đối, tinh thần lại không thể như thế. (Những) QUY ĐỊNH TƯ DUY tạo nên bản chất của chúng không cố hữu trong một cơ chất mà liên hệ qua lại với nhau một cách BIỆN CHỨNG.

5. Chỉ có cái tuyệt đối, ý niệm v.v. mới là “đúng thật” một cách chặt chẽ. Nhưng, Hegel cũng thường xem một khái niệm, một hình thái ý thức, một cấp độ của giới tự nhiên hay một giai đoạn lịch sử là Wahrheit [“chân lý”, “sự thật”] của một hay nhiều tiền thân của nó trong trình tự khái niệm hay trong diễn trình lịch sử, cho dù nó chưa phải là giai đoạn sau cùng, nghĩa là, chưa phải là “chân lý hay sự thật tuyệt đối”. Vì thế, TRI GIÁC là chân lý/sự thật của sự XÁC TÍN CẢM TÍNH; sự TRỞ THÀNH là chân lý/sự thật của TỒN TẠI và HƯ VÔ; MỤC ĐÍCH LUẬN là chân lý/sự thật của Cơ GIỚI LUẬN và HÓA HỌC LUẬN. Cách sử dụng này bao hàm mấy ý tưởng sau đây:

(a) Nếu cái gì đó là chân lý/sự thật của cái đi trước của nó, thì, dù nó chứa đựng những mâu thuẫn của riêng nó và sẽ xuất hiện ra sau này, nhưng nó giải quyết và thoát khỏi những mâu thuẫn đã được chứa đựng trong cái đi trước.

(b) Nó là, hay hiện thân, khái niệm mà cái đi trước của nó đã nỗ lực thực hiện, nhưng đã không thể hiện thực hóa một cách thích đáng mà không thay đổi thành một cái gì khác. Tưong tự như thế, ta có thể Sổ thảo một bài báo, nhưng không thể thực hiện trọn vẹn các ý định có trong đầu nếu không mở rộng nó thành một công trình khảo cứu. (Điều này không có nghĩa rằng công trình khảo cứu, khi đã hoàn tất, là chung quyết và không cần có thay đổi nào trong lần tái bản).

(c) Chân lý/sự thật của cái đi trước không đon giản thế chỗ cho nó, mà chứa đựng hay vượt bỏ những gì là đúng thật ở trong nó. (Công trình khảo cứu chứa đựng những gì “đúng thật” ở trong bài báo Sổ thảo).

6. “Chân lý/sự thật” của một cách nói cho thấy chân lý không đon giản là đối lập với sai lầm và thiếu sót. Sai lầm, thiết sót sẽ phát triển thành chân lý và được vượt bỏ trong chân lý. Tưong tự như thế, những thực thể hữu hạn hay “sai lầm” bên trong vũ trụ không đon giản là đối lập với cái đúng thật hay với cái VÔ HẠN, trái lại, được vượt bỏ trong nó. Hölderlin cũng có cái nhìn tưong tự: “Chân lý đúng thật nhất chỉ có thể là cái trong đó sai lầm cũng trở thành chân lý, bởi chân lý, trong hệ thống toàn bộ của nó, thiết định cái sai lầm đúng lúc và đúng nổi”. Vì thế, khi Hegel phê phán các triết gia khác, chẳng hạn, phê phán Spinoza hay Jacobi, ông có xu hướng cho rằng không phải quan niệm của Spinoza hay Jacobi là sai lầm, trái lại, quan niệm ấy phát triển thành quan niệm của ông.

Quan niệm của Hegel về chân lý nhất quán với các phương diện khác trong tư duy của ông:

(1) Chân lý của cái gì đó, dù là của tư tưởng hay sự vật, không tách bạch với giá trị hay ý nghĩa của nó. Một tác phẩm nghệ thuật “đúng thật/ đích thực” cũng ipso facto [từ bản thân sự việc] là một tác phẩm hay, đẹp. Ngược lại, Hegel rất khinh ghét khi phải gọi một nhận định tầm thường, hiển nhiên nào đó là nhận định “đúng thật”.

(2) Một chân lý/sự thật phân mảnh đóng khung trong một hệ thống khái niệm hay một lý thuyết khoa học một cách không tương ứng thì không thể là “đúng thật” theo nghĩa chặt chẽ. Vì thế, “chân lý” và “sai lầm” có mặt trước hết trong hệ thống khái niệm hay lý thuyết khoa học làm khuôn khổ chung cho phán đoán, hơn là trong bản thân phán đoán ấy.

(3) Thế giới tạo nên một HỆ THỐNG liên kết lẫn nhau, khiến cho không một tư tưởng hay phán đoán phân mảnh, riêng lẻ nào có thể là “đúng thật” hay tương ứng với cả hệ thống.

(4) Có một sự hội tụ tối hậu và một sự song hành sâu sắc giữa thế giới và tư tưởng của ta về nó. Cho nên, chúng phải vừa đúng thật (hoặc sai lầm) cùng với nhau. (Xem: DUY TÂM (thuyết)).

(5) Chân lý của một nền triết học, và sự bất khả xâm phạm của nó trước thuyết HOÀI NGHI, không phụ thuộc vào, chẳng hạn, sự tương ứng của nó với những sự kiện, trái lại, phụ thuộc vào sự mạch lạc nội tại và sự bao quát toàn diện của nó.

Bùi Văn Nam Sơn dịch

Chất, Lượng và Hạn độ (Đức: Qualität, Quantität und Mass; Anh: quality, quantity and measure)

Phần chính thứ nhất của Lô-gíc học, Học thuyết về TỒN TẠI, được chia làm ba chương: Chất, Lượng và Hạn độ.

1. Qualität là chữ được vay mượn từ chữ qualitas trong tiếng La- tinh ở thế kỷ XVI, đến lượt nó, qualitas bắt nguồn từ chữ qualis (“thuộc loại nào?”). Theo cách dùng thông thường, nó là (a) một mức độ ưu trội (về “phẩm chất kém, phẩm chất tốt”, v.v.) hoặc (b) sự ưu trội hon cả (“chúng tôi lo về chất, chứ không lo về lượng”). Trong triết học, nó là một “thuộc tính”; Hegel đặt nó ngang hàng với chữ Bestimmtheit (TÍNH QUY ĐỊNH, sự quy định/Anh: determinacy, determinateness). Chất của một PHÁN ĐOÁN là tính khẳng định, tính phủ định hoặc tính vô hạn của phán đoán ấy. (Hegel có xu hướng hòa lẫn chất của phán đoán với việc phán đoán gán một chất cho cái gì đó). Böhme liên kết Qualität với Quai (sự đau đớn, sự dằn vặt, nỗi thống khổ) và đề xuất các chữ Qualierung và Inqualierung để chỉ sự xung đột qua đó một chất tự tạo ra mình và duy trì sự tồn tại của mình. Sự kết hợp này không có Cổ sở từ nguyên học nào cả.

Trong Tô-gíc học, Qualität vừa là đề mục chung bao quát cả: tồn tại, TỒN TẠI NHẤT ĐỊNH, và tồn tại CHO MÌNH, vừa là một mô-men của tồn tại nhất định. Chất khác với THUỘC TÍNH (Eigenschaft) ở chỗ (a) thuộc tính cũng là một sức mạnh, tác động đến những sự vật khác (ví dụ: “cà phê có thuộc tính là làm cho ta tỉnh táo”), trong khi đó, chất thì thụ động hon, và (b) một thuộc tính thuộc về một sự VẬT, nó có thể tồn tại lâu bền qua những thay đổi trong các thuộc tính của nó, trong khi đó, một thực thể, theo Hegel, được cấu tạo bởi chất của nó và không thể nào tiếp tục tồn tại được một khi chất của nó không còn. Nhìn chung, chất chuyển sang lượng theo cách tồn-tại-cho-mình, - là cái tồn tại chỉ quan hệ với chính mình chứ không quan hệ với bất cứ cái gì khác -, không còn có một chất nhất định nữa và trở thành một nguyên tử hay một đon vị, đến lượt nó, nguyên tử hay đon vị này sản sinh ra các nguyên tử hay các đon vị khác bên cạnh bản thân nó.

2. Quantität được vay mượn từ chữ Ta-tinh quantitas vào thế kỷ XVI; chữ quantitas này có gốc từ chữ quatus (“lớn bao nhiêu, nhiều bao nhiêu, có bao nhiêu?, nhiều, V.V., như...”). Danh từ giống trung của quantus là chữ quantum, mang lại cho tiếng Đức (thế kỷ XVII) chữ Quantum, một lượng riêng hay một đại lượng. Chữ Grösse trong tiếng Đức bản địa (“kích cỡ, độ lớn, lượng”, từ chữ gross “lớn, rộng, to”) thì lưng chừng giữa Quantität và Quantum; Hegel thường đặt nó ngang hàng với Quantum. Tượng của một phán đoán là tính PHỔ BIỂN, tính ĐẶC THÙ hay tính CÁ BIỆT của phán đoán ấy.

Theo cách hiểu truyền thống, lượng được xem là (a) gián đoạn (diskret) hoặc liên tục (kontinuierlich, stetig) và (b) (có tính) (“quảng tính”, “trưong độ” (extensiv(e)) hoặc (có tính) “cường độ” (intensiv(e)):

(a) Các số tự nhiên (1, 2, 3, 4...) là gián đoạn: nếu ta tự giới hạn mình vào dãy số này, thì sẽ không có con số nào nằm giữa hai số hạng liền kề trong dãy số đó (ví dụ, giữa 3 và 4). Các số tự nhiên thích hợp cho việc đếm, ví dụ, những dấu chấm nhỏ trên giấy hay những con bò trên cánh đồng: mỗi con bò có thể được chia thành những bộ phận, nhưng điều này không thích hợp nếu một người nào đó chỉ đon giản muốn đếm số bò của anh ta. Nếu chúng ta thêm các phân số và các số vô tỉ (chẳng hạn V 2 ) thì dãy số sẽ trở nên liên tục và thích hợp cho việc đo lường, ví dụ như đo một đường thẳng hay chiều dài của một con bò. Hegel xem bất kì lượng hay đại lượng nào cũng đều vừa liên tục vừa gián đoạn. Một lượng được coi là gián đoạn hay liên tục tùy thuộc vào điểm nhìn hay mối quan tâm của ta: có 6 con bò (riêng lẻ, [tức gián đoạn]), nhưng xếp nối đuôi nhau thì chúng nối dài thành 10 mét; 10 mét này là một đại lượng liên tục, có thể tiếp tục được chia thành những phần, ví dụ, của một mét, nhưng nó cũng là một đại lượng gián đoạn, mười cái một mét giống hệt nhau, giống như sáu con bò vẫn là sáu con bò riêng lẻ dù chúng có xếp hàng nối đuôi nhau. Hegel xem đây là giải pháp cho nghịch lý thứ hai của Kant, tức là, vật chất vừa bao gồm những bộ phận đon giản lại vừa có thể phân chia vô hạn: vật chất, theo Hegel, có thể được coi hoặc là gián đoạn, gồm một số lượng nhất định của các bộ phận với những kích cỡ riêng, hoặc là liên tục, có thể phân chia ad infinitum (đến vô hạn) thành những bộ phận nhỏ hon nữa, và vì vậy nó vừa gián đoạn vừa liên tục. (Đây chỉ là biện pháp tránh né vấn đề của Kant: vật chất hoặc là liên tục theo nghĩa, về nguyên tắc, nó có thể được phân chia ad infinitum, hoặc là gián đoạn theo nghĩa nó không thể được phân chia đến vô hạn).

(b) Một lượng có thể là lượng quảng tính (số con bò trên cánh đồng, độ chiếm chỗ của một vật nào đó trong không gian hay thời khoảng của một sự biến trong thời gian) hoặc có thể là lượng cường độ (sức mạnh của một lực, trọng lượng của một vật nào đó, Grad hay “độ” trên thang nhiệt độ của nó). Lượng cường độ đôi khi hoạt động như lượng quảng tính: trọng lượng của 2 pao (pound = 0, 4536 kg), dù ta có dùng hệ thống đo lường nào đi chăng nữa, thì cũng nặng gấp hai lần trọng lượng của 1 pao, và trọng lượng cả thảy của chúng là 3 pao. Nhưng không phải lúc nào cũng thế: 1 panh (pint = 0, 571) nước ở nhiệt độ 90°C không nóng gấp hai lần một panh nước ở nhiệt độ 45°C; vì tỉ lệ giá trị bằng số của nhiệt độ sẽ khác nhau khi các hệ thống đo lường khác nhau; nếu hai panh nước, mỗi panh 45°c, trộn lẫn lại với nhau, cả hai panh đều 45°c chứ không phải 90°C. Hegel cho rằng, bất kì một lượng nào cũng phải vừa là quảng tính vừa là cường độ, vì, ví dụ, một thực thể không những phải có kích cỡ và độ dài thời gian mà còn phải có một chất khu biệt nào đó và vì thế phải có một độ nhất định của chất ấy; và lượng cường độ chỉ có thể được đo bằng mối tưong quan của nó với một lượng quảng tính, ví dụ mối tưong quan của nhiệt độ với chiều cao của thủy ngân trong ống nhiệt kế.

Trong KHLG, Hegel dành nhiều trang để xem xét tính vô hạn của số học và toán học. Ông xem số học như một ngành khoa học của GIÁC TÍNH, không thích hợp để áp dụng vào các đối tượng của triết học. Ông chỉ trích Schelling vì đã áp dụng những xem xét có tính định lượng vào cho cái TUYỆT ĐỐI, làm cho sự phân đôi của cái tuyệt đối thành tự nhiên và tinh thần phụ thuộc vào sự ưu trội về lượng của cái khách quan so với cái chủ quan hay ngược lại, và sử dụng khái niệm “lũy thừa” (Potenz) trong toán học đối với một giai đoạn tồn tại hay phát triển. Tuy nhiên, ông cố gắng diễn dịch và hệ thống hóa các phép tính số học khác nhau. Hegel cho rằng toán học chỉ bàn về lượng mà thôi, vì ông không biết gì về môn phi định lượng ngoại trừ môn topo trong toán học, cho dù các yếu tố của nó ẩn ngầm trong nghiên cứu của ông về hạn độ.

Quantum, giống như một cái gì đó bị hạn định (Etwas), bao hàm một RANH GIỚI, và tính VÔ HẠN về lượng là ở chỗ nó liên tục vượt ra khỏi giới hạn. Khác với giới hạn của cái gì đó, giới hạn của một Quantum thì “dứng dưng” (gleichgültig): một cái gì đó hay một chất được giới hạn bởi một cái gì đó khác với nó (ví dụ: màu đỏ khác với màu xanh, và một vật màu đỏ nằm kế tiếp một vật màu xanh), nhưng một đại lượng xét như là một đại lượng thì không được giới hạn bởi bất cứ cái gì khác với nó, về chất hay về lượng: chẳng hạn, một phạm vi của một không gian trống được giới hạn bởi một không gian trống hơn nữa, vì vậy nó dửng dưng với việc ranh giới được vạch ra ở đâu. Các đặc tính về chất đòi hỏi phải có những ranh giới không tùy tiện giữa các sự vật.

Nghiên cứu về lượng kết thúc bằng tỷ lệ (Verhältnis/Anh: ratio, proportion), tức TƯƠNG QUAN giữa hai biến số, chẳng hạn như X : 2x. Giá trị của các biến có thể tăng một cách bất định (ví dụ: 2 : 4, 3 : 6, 4 : 8...), nhưng tỉ lệ của chúng không thay đổi. Theo Hegel, đây là một sự tái xuất hiện của chất, đặc điểm bền vững của một thực thể, bên trong phạm vi của lượng, mà đặc điểm của nó là có thể được tăng hoặc giảm một cách bất định. Vì vậy, chất và lượng thống nhất ở hạn độ.

3. (Das) Mass (“hạn độ”/Anh: measure) có liên quan đến messen (nguyên nghĩa là “vẽ ranh giới, khoanh vùng” (một khu vực), và nay có nghĩa là “đo lường”). Chữ này có một lịch sử phức tạp với nhiều tầng nghĩa, thường gồm những nghĩa khác nhau của động từ messen và các nghĩa phái sinh của nó: (1) số lượng được phân phối (zugemessen) cho một người, lượng chính xác, khu vực đã được phân ranh giới; (b) cách, cách thức (làm việc gì); (c) cái thích hợp hay phù hợp (angemessenes); (d) sự tiết độ, sự chế ước (Mässigung). Nghĩa hiện thời của nó là “hạn độ, tỉ lệ (Verhältnis), chiều kích, độ (Grad), sự tiết chế, (trọng lượng và) hạn độ”. Chữ Mass (hạn độ) có hình thức giống cái (die Mass (e)) có nghĩa: (a) “hạn độ”, chẳng hạn, lít của bia, và (b) “sự tiết chế, đúng mực”, và nghĩa hiện thời đặc biệt là trong các ngữ thức như über alle Massen (quá độ, vượt qua mọi giới hạn). Nó xuất hiện ở nhiều từ ghép: Massregel (quy tắc- đo lường, tức là một quy tắc hướng dẫn, một bước hay một sự đo lường được tiến hành); Massstab (“gậy đo, thước đo, cân, mức độ, tiêu chuẩn”). Chữ Messen (“đo lường”) cũng mang lại chữ Durchmesser (“qua-dụng cụ đo”, tức là đường kính) và Erdmesser (“dụng cụ đo trái đất”, tức là đường trắc địa).

Hầu hết các nghĩa và các kết hợp này đều xuất hiện trong nghiên cứu của Hegel về hạn độ, như chữ modus trong tiếng La-tinh (thức đúng cách, quy tắc, phương cách, thể cách, nhất là thể cách của một thuộc tính ở Spinoza) và ý tưởng của người Hy Lạp về sự tiết độ và về những giới hạn mà việc vượt ra khỏi chúng tất bị báo ứng. Tuy nhiên, ý tưởng chính của Hegel là: chất và lượng của một thực thể thoạt đầu là độc lập với nhau. Một cánh đồng dù lớn hay nhỏ gì thì cũng vẫn là một cánh đồng. Nước dù nóng hay lạnh gì thì nước vẫn là nước. Nhưng cả trong lượng quảng tính lẫn lượng cường độ, có những giới hạn mà vượt qua chúng thì sự biến đổi về lượng sẽ tạo ra sự biến đổi về chất. Các sinh thể hữu cơ không thể thay đổi kích thước của chúng trong khi vẫn giữ nguyên hình dạng như trong những câu chuyện thần tiên: một gã khổng lồ có cùng hình dạng với một người bình thường, nhưng lớn hơn gấp 10 lần, ắt sẽ bị gãy chân vì khổ người và sức mạnh của gã không gia tăng theo tỉ lệ với trọng lượng của gã. Nếu mọi thứ đều được nhân đôi về kích thước thì ta ắt sẽ nhận biết được ngay trọng lượng phụ trội khi ta mang chúng. Khi một đứa bé tăng trưởng về kích thước, cái đầu của nó trở nên nhỏ hơn trong tương quan với cơ thể của nó.

Nhưng, như những nút thắt trên sợi dây, Hegel tập trung vào những trường hợp ở đó những biến đổi về chất chỉ diễn ra một cách không liên tục trong diễn trình biến đổi liên tục về lượng: nước, được đun nóng đủ, trở thành hơi nước, và, được làm lạnh đủ sẽ đóng băng; việc nó trải qua những biến đổi về chất như thế là thiết yếu nếu ta phải đo nhiệt độ của nó. Điều này gợi nên viễn tượng về một sự tăng và giảm không vô hạn, ví dụ, như nhiệt độ, được “thắt nút” tại những khoảng dừng bởi sự vô hạn của những thay đổi về chất. Nhưng, Hegel coi sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chất và lượng như là việc chỉ ra cái BẢN CHÂT làm nền tảng cho chúng.

Cù Ngọc Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Wahrheit /die; -, -en/

(o Pl ) tính chân thật; tính chất đúng thực tế (Richtigkeit);

Wahrheit /die; -, -en/

điều có thực; sự thật (Tatbestand);

das ist die nackte Wahrheit : đó là sự thật trần trụi die Wahrheit sagen : nói đúng sự thật in Wahrheit : trong thực tế, thật sự.

Wahrheit /die; -, -en/

(bes Philos ) chân lý; lẽ phải (Erkenntnis);

Từ điển triết học Kant

Chân lý [Hy Lạp: aleitheia; Latinh: veritas; Đức: Wahrheit; Anh: truth]

Xem thêm: Phân tích pháp, Hiện tượng, Xác tín (sự), Xem-là-đúng (sự), Ảo tượng,

Câu trả lời của Kant cho câu hỏi “chân lý là gì” được trình bày dựa vào “tiêu chuẩn phổ biến và chắc chắn để biết được chân lý của một nhận thức” (PPLTTT A58/ B82). Sau khi xem xét định nghĩa duy danh được xem là đương nhiên về chân lý như “sự trùng hợp của nhận thức với đối tượng của nó” (A58/ B82), ông tuyên bố rằng không thể có tiêu chuẩn phổ biến nào “có giá trị cho mọi nhận thức không phân biệt những đối tượng của chúng” (A58/ B83). Tuy nhiên, trong khi điều này là đúng với nội dung của nhận thức, thì ta có thể xác lập một tiêu chuẩn logic, tiêu cực về chân lý trong chừng mực “những quy luật phổ biến và tất yếu của giác tính” (A59/ B84) được logic học trình bày như là một điêu kiện không thể thiếu [conditio sine qua non]. Bởi lẽ, “cái gì mâu thuẫn lại với những quy luật ấy là sai” (sđd) mặc dù sự trùng hợp với những quy luật này tự nó không phải là một tiêu chuẩn đầy đủ của chân lý.

Bên trong khuôn khổ phê phán, quan niệm về “sự trùng hợp của một nhận thức với đối tượng của nó” mang một ý nghĩa mới, đặc biệt là dưới ánh sáng của tiên đề cơ sở của nó phát biểu rằng “những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm” (PPLTTT A158/ B197). Điều này có nghĩa là những điều kiện của kinh nghiệm qui định sự trùng hợp giữa nhận thức và đối tượng, hay như Kant nói, “kinh nghiệm mang lại cho ta quy luật và là nguồn suối của chân lý” (A318/ B375). Những điều kiện của kinh nghiệm bao gồm những hiện tượng được mang lại thông qua trực quan tiên nghiệm và được tổng hợp bằng những khái niệm tiên nghiệm thuần túy của giác tính. Vì thế, Kant có thể nói rằng sự tổng hợp những yếu tố này “như là nhận thức tiên nghiệm, lại chỉ có được chân lý (là sự trùng hợp với đối tượng) là khi nó không chứa đựng gì khác hon là những gì tất yếu cần thiết để mang lại sự thống nhất tổng hợp của kinh nghiệm nói chung (A158/ B197). Điều này phải bao gồm, như Kant giải thích kỹ, “những điều kiện mô thức của trực quan tiên nghiệm, sự tổng hợp của trí tưởng tượng và sự thống nhất tất yếu của tổng hợp ấy trong một Thông giác siêu nghiệm” (A158/ B197). Với lập luận này, Kant bác bỏ bất kỳ quan điểm nào theo thuyết Platon xem chân lý như là sự phù hợp giữa nhận thức với một ý niệm, đồng thời cũng bác bỏ một sự đánh đồng kiểu Platon giữa cảm năng và ảo tượng. Những hiện tượng không còn được xem như những ảo tượng nữa, mà là một yếu tố bản chất của kinh nghiệm và do đó, là của chân lý.

Bên cạnh nghiên cứu này về chân lý như là “sự phù hợp với đối tượng”, Kant cũng trình bày một chân lý được trình bày dựa theo tính giá trị hiệu lực. Trong phiên bản này, chân lý được bàn luận dựa vào “việc xem-là-đúng” hay tính giá trị hiệu lực chủ quan và khách quan của các phán đoán. Nó có ba mức độ: tư kiến, tức cái có ý thức nhưng không đầy đủ cả về mặt chủ quan lẫn khách quan; lòng tin, tức cái có ý thức chỉ đầy đủ về mặt chủ quan nhưng không đầy đủ về mặt khách quan; tri thức, tức cái đầy đủ cả hai mặt chủ quan lẫn khách quan và do đó là sự xác tín (PPTTTT A822/ B850). Tuy nhiên, quan niệm về sự đầy đủ khách quan có thể được đưa ra để bao hàm bên trong nó định nghĩa về “chân lý như sự phù hợp với đối tượng” (A58/ B82).

Hoàng Phong Tuấn dịch

Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Wahrheit

vérité

Wahrheit

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Wahrheit /f =, -en/

sự thật, sự thực, chân lí; ỉn Wahrheit thực ra, quả thật.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Wahrheit

[VI] Chân lý

[DE] Wahrheit

[EN] truth

Wahrheit

[VI] Chân lý

[DE] Wahrheit

[EN]

Wahrheit,Wahrhaftigkeit,Richtigkeit

[VI] Chân lý; Chân thực; Chân xác

[DE] Wahrheit; Wahrhaftigkeit; Richtigkeit

[EN] truth; truthfulness; rightness

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Wahrheit

[EN] truth; true

[DE] Wahrheit

[VI] Chân

[VI] thực

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Wahrheit /f/M_TÍNH/

[EN] truth

[VI] chân lý

Metzler Lexikon Philosophie

Wahrheit

Der philosophische Wahrheitsbegriff kommt sprachlich vor allem in der prädikativen Verwendung von »wahr« und »falsch« zum Ausdruck. Er bezieht sich auf propositionale Gebilde wie z.B. Aussagen, Sätze oder Urteile, wenn diese als Behauptungen verwendet werden (sog. Aussagen-Wahrheit). Ob es sich dabei primär um eine Eigenschaft einzelner sprachlicher Äußerungen, Typen solcher Äußerungen oder aber der zum Ausdruck gebrachten Bedeutung (Proposition) handelt, ist umstritten (im Folgenden wird »Aussage« als in dieser Hinsicht neutral gebraucht). – Von der prädikativen Verwendung abgeleitet ist ein attributiver Gebrauch (»ein wahrer Freund«) sowie das Substantiv »W.«. – Seit Frege bezeichnet man »W.« und »Falschheit« auch als die möglichen Wahrheitswerte einer behauptenden Aussage. – Von W. zu unterscheiden ist die Wahrhaftigkeit (im Gegensatz zur Lüge), die als das subjektive Für-Wahr-Halten der eigenen Aussage den Begriff der Aussagewahrheit jedoch ebenfalls voraussetzt.

Der Begriff der W. wird seit jeher außerordentlich kontrovers diskutiert. Trotz Nietzsches Kritik der W. als konventioneller Lüge und Heideggers Erweiterung des Wahrheitsbegriffs zur »Unverborgenheit« und »Erschlossenheit des Daseins« steht im Mittelpunkt der Diskussion immer noch die genaue Bestimmung des Wahrheitsbegriffs in Anwendung auf nicht-analytische Aussagen, da man sich von der Aufklärung dieses Begriffs Aufschluss über das Verhältnis des menschlichen Denkens und Sprechens zur Wirklichkeit erhofft. Die verschiedenen sogenannten Wahrheitstheorien verfolgen eines oder mehrere der folgenden drei Ziele: (1) Angabe der Funktion oder Verwendungsweise des sprachlichen Ausdrucks »wahr«, (2) Definition oder Analyse des Wahrheitsbegriffs und (3) Angabe eines oder mehrerer Wahrheitskriterien. Allerdings ist strittig, wie weit diese drei Punkte voneinander unabhängig sind. – Unstrittiger Ausgangspunkt der verschiedenen Wahrheitstheorien ist das sogenannte Äquivalenzschema: »Es ist wahr, dass p genau dann, wenn p«. Das bedeutet: Wenn man von einer beliebigen Aussage behauptet, sie sei wahr, dann ist die auf diese Weise gebildete Aussage unter denselben Umständen wahr oder falsch wie die Ausgangsaussage selbst. Diese schon von Platon hervorgehobene Äquivalenz kommt deutlich auch in der berühmten Wahrheitsdefinition des Aristoteles zum Ausdruck: »Denn zu behaupten, das Seiende sei nicht oder das Nichtseiende sei, ist falsch.

Aber zu behaupten, dass das Seiende sei und das Nichtseiende nicht sei, ist wahr« (Met. 1011 b26 ff). Die verschiedenen Wahrheitstheorien unterscheiden sich unter anderem darin, welchen Stellenwert sie dem Äquivalenzschema einräumen.

Redundanz-Theorien: Die zuerst von Ramsey und Ayer vertretene Redundanztheorie der W. besagt, dass das Äquivalenzschema die Bedeutung des sprachlichen Ausdrucks »wahr« vollständig erfasst: Zu sagen, ein bestimmter Satz sei wahr, bedeutet nicht mehr, als diesen Satz selbst zu behaupten. Die Ausdrücke »wahr« und »falsch« sind also für die Bedeutung des Satzes überflüssig (redundant) und dienen lediglich als Zeichen der Bejahung bzw. Verneinung. »Wahr« ist in logischer Hinsicht kein Prädikat und drückt keine Eigenschaft aus. Eine Fortführung dieses Ansatzes ist die sogenannte performative Theorie der W. (Strawson). Sie besagt, dass man mit einem Satz des Typs »Es ist wahr, dass p« keine andere Aussage macht als mit »p« selbst, wohl aber eine andere Handlung vollzieht, nämlich üblicherweise die des Bestätigens oder Bekräftigens einer vorangegangenen Aussage; »wahr« ist ein performatives (vollziehendes) Wort. Daran anknüpfend behauptet die prosententiale Theorie der W. (Grover/Camp/Belnap), dass sich alle Verwendungsweisen von »wahr« auf solche Fälle zurückführen lassen, in denen »wahr« als unselbständiger Teil in Ausdrücken wie »Das [gerade Gesagte] ist wahr« (sog. Prosentenzen) vorkommt und damit zur indirekten Behauptung einer durch den Äußerungskontext festgelegten Aussage beiträgt. Der Gebrauch von »ist wahr« ist danach ein Ersatz für die in natürlichen Sprachen nicht übliche Quantifikation über Aussagenvariable. – Wenn aber der sprachliche Ausdruck »wahr« lediglich Ausdruck einer besonderen Form des Behauptens ist, stellt sich die Frage, warum wir einige Aussagen behaupten und andere nicht. Die naheliegende Antwort, dass wir einige Aussagen für wahr halten und andere nicht, steht der Redundanztheorie nicht offen. Wenn sich nicht ein Begriff gerechtfertigten Behauptens angeben lässt, der von dem der W. unabhängig ist, läuft diese Theorie deshalb Gefahr, unser Sprachverhalten auf kognitiv gehaltlose Reaktionen auf Umweltreize zu reduzieren.

Tarskis semantische Theorie der W.: Von besonderer Bedeutung für die wahrheitstheoretische Diskussion in der analytischen Philosophie ist die Wahrheitsdefinition Tarskis. Das Wahrheitsprädikat in den natürlichen Sprachen erlaubt Paradoxien der Form: »P: Der mit ˲P.˱ bezeichnete Satz ist falsch« (z.B. die »Antinomie des Lügners«). Solche Paradoxien beruhen nach Tarski auf der »semantischen Geschlossenheit« natürlicher Sprachen: Semantische Prädikate wie z.B. »wahr« oder »bedeutet« betreffen das Verhältnis der Ausdrücke einer Sprache L zu den mit L-Ausdrücken bezeichneten Gegenständen. Natürliche Sprachen enthalten aber ihre »eigenen« semantischen Prädikate. Will man dies vermeiden, so muss man semantische Prädikate wie Ausdrücke einer anderen, der sogenannten »Metasprache« (ML) behandeln. Durch diese Unterscheidung der Sprachebenen können die Wahrheitsantinomien tatsächlich vermieden werden. – Die Definition eines Wahrheitsprädikats (für eine Sprache L in einer Metasprache ML) ist Tarskis »Konvention W« zufolge sachlich adäquat, wenn aus ihr alle Sätze der Form »X ist wahr gdw. p« folgen, wobei »X« durch den Namen eines Satzes von L und »p« durch die Übersetzung dieses Satzes in ML zu ersetzen ist. Gebrauchen wir zur Veranschaulichung Englisch als Objekt- und Deutsch als Metasprache, so ergibt sich Z.B.: »˲Snow is white˱ ist wahr-in-Englisch gdw. Schnee weiß ist«. Einen solchen sog. »W-Satz« betrachtet Tarski als »partielle Definition« des Wahrheitsprädikats der betreffenden Sprache (hier Englisch). – Tarskis Leistung liegt in dem Nachweis, dass sich für bestimmte formale Sprachen (endlicher Ordnung), die neben einfachen Prädikaten auch Quantoren und wahrheitsfunktionale Verknüpfungen (wie Negation und Konjunktion) enthalten können, ein Wahrheitsprädikat definieren lässt, dass der »Konvention W« genügt. Dabei erhält jede Sprache Lk ihr eigenes metasprachliches Wahrheitsprädikat »wahr-in-Lk«. Extrem vereinfacht beruht Tarskis Definition auf folgender Grundidee: Ein Satz wie z.B. »Die Erde ist rund« ist wahr, wenn der darin vorkommende singuläre Terminus (»die Erde«) einen Gegenstand bezeichnet, der unter das in dem Satz vorkommende Prädikat (»ist rund«) fällt. Tarski gibt nun in der (rekursiven) Definition eines semantischen Grundprädikats (»Erfüllung«) für jedes einfache Prädikat P der Sprache L in Form einer Liste an, wann ein Gegenstand x darunter fällt (»X fällt unter P, wenn P = ist weiß und x weiß ist … oder wenn P = ist rund und x rund ist…«). Diese Liste erlaubt eine explizite Definition von »ist-wahr-in-L«, aus der sich tatsächlich alle W-Sätze ableiten lassen. – Für natürliche Sprachen ist ein solches Vorgehen allerdings nicht durchführbar. Außerdem setzen die rekursive Definition des Erfüllungsbegriffs und die Übersetzung von Objekt- in Metasprache die Kenntnis semantischer Relationen bereits voraus. Während der Wert der Tarski’schen Definition für Logik und Mathematik außer Zweifel steht, ist ihre philosophische Relevanz daher umstritten. – Eine Übertragung der Grundidee Tarskis auf natürliche Sprachen stellt die Disquotations- oder Zitat-Tilgungstheorie der W. dar (nach Quines berühmtem Diktum »Truth is disquotation«): Mit »Es schneit ist wahr« behauptet man nicht mehr, als dass es schneit; »wahr« ist lediglich ein sprachliches Mittel zum »semantischen Aufstieg« von der Objekt- in die Metasprache, um mit Hilfe des Namens eines Satzes (»Es schneit«) dasselbe zu sagen wie mit dem benannten Satz selbst. Im Fall natürlicher Sprachen verfügen wir jedoch nicht über eine vollständige Definition des Wahrheitsprädikats, sondern nur über die einzelnen W-Sätze. Wie die ihr verwandte Redundanztheorie bestreitet die Disquotationstheorie die philosophische Relevanz des Wahrheitsbegriffs.

Korrespondenztheorie: Diese im Alltag wie auch in der Geschichte der Philosophie wohl verbreitetste Wahrheitsauffassung besagt, dass W. in einer Übereinstimmung (Korrespondenz) zwischen einem geistigen oder sprachlichen Gegenstand (z.B. Vorstellung, Urteil, Satz) und (einem Teil) der Wirklichkeit besteht. Klassischer Ausdruck dafür ist die scholastische Formel »Veritas est adaequatio rei et intellectus«. Gegen diese Auffassung sind jedoch v.a. seit dem 19. Jh. immer wieder Einwände erhoben worden: Welcher Art soll die angenommene Übereinstimmung sein? Offenbar kann ein Urteil oder eine Aussage über einen Tisch mit diesem nicht so übereinstimmen wie ein Bild mit seinem Gegenstand. Eine mögliche Antwort besteht darin, dass nicht einzelne Gegenstände, sondern Tatsachen oder Sachverhalte mit den Aussagen übereinstimmen sollen. Die Korrespondenz ließe sich dann z.B. als strukturelle Isomorphie zwischen Aussagen und Tatsachen verstehen (Russell, Wittgenstein). Eine solche Theorie, der zufolge W. in einer echten Relation zwischen Aussagen einerseits und denk- und sprachunabhängig individuierten Tatsachen, Situationen oder Gegenständen andererseits besteht, kann man als starke Korrespondenztheorie bezeichnen. Sie steht jedoch vor dem Problem, welche Tatsachen allgemeinen, negierten oder disjunktiven Aussagen entsprechen sollen. Nimmt man zu jeder wahren Aussage eine entsprechende Tatsachen an, so trivialisiert man die unterstellte Korrespondenz und verschiebt das Problem auf die Beziehung zwischen den Tatsachen und den in ihnen »vorkommenden« Gegenständen. – Lässt man dagegen den Rekurs auf Tatsachen ganz fallen und nimmt an, dass die fragliche Korrespondenz vollständig in den trivialen W-Sätzen Tarskis zum Ausdruck kommt, so gelangt man zu einer schwachen Korrespondenztheorie. Sowohl die Disquotationstheorie als auch die Aristotelische Definition (s.o.) lassen sich in diesem Sinne verstehen.

Wahrheitskriterien und epistemische Theorien der W.: Natürlich ist es nicht ausreichend, die Definition der W. zu kennen, denn schließlich möchte man auch von einzelnen Aussagen feststellen können, ob sie wahr oder falsch sind. Daraus ergibt sich die Frage nach einem Kriterium, das es erlaubt, wahre von falschen Aussagen zu unterscheiden. Kandidaten für ein solches Kriterium sind vor allem: (1) eine intuitive Evidenz, insbesondere bei einfachen oder grundlegenden Aussagen wie unmittelbaren Beobachtungsprotokollen oder mathematischen Axiomen; (2) die Kohärenz (ein innerer Zusammenhang) eines Aussagesystems, deren Teil die fragliche Aussage ist; (3) die Nützlichkeit einer der Aussage entsprechenden Überzeugung; (4) der Konsens (Übereinstimmung) einer faktischen oder idealen Gemeinschaft von Forschern oder Laien. – Allerdings sprechen schwerwiegende Gründe dagegen, in einem der möglichen Kriterien eine notwendige oder hinreichende Bedingung der W. zu sehen: (1) Evidenzen können bloß scheinbar sein und somit täuschen. (2) Zu jedem kohärenten Aussagesystem A gibt es unverträgliche alternative Aussagesysteme, die ebenfalls kohärent sind; nur eines von ihnen kann wahr sein. (3) Es gibt auch Fälle nützlicher Täuschungen. (4) Ein faktischer Konsens in einer Gemeinschaft kann auf einem gemeinsamen Irrtum beruhen, während ein idealer Konsens offenbar kein handhabbares Kriterium ist. – Es scheint, als ergebe sich für jedes mögliche Kriterium die Alternative, entweder die Möglichkeit eines Irrtums offen zu lassen oder ebenso schwer feststellbar zu sein wie die W. selbst. Darüber hinaus droht ein infiniter Regress, da die Aussage über das Vorliegen des fraglichen Kriteriums natürlich selbst wahr oder falsch sein kann. Daher ist die Auffassung verbreitet, dass es ein allgemeines Wahrheitskriterium nicht gibt und man die genannten Kriterien allenfalls als heuristische Anzeichen betrachten sollte. – Eine Radikalisierung dieser Haltung, die aus analogen Gründen auch eine Korrespondenzrelation als Definiens der W. ablehnt, aber gegenüber der Redundanz-und Disquotationstheorie darauf besteht, dass W. eine echte (gehaltvolle) Eigenschaft bestimmter Aussagen ist, führt zur »sui-generis«-Auffassung, wie sie zeitweise etwa von Moore oder Frege vertreten worden ist: W. ist ein undefinierbares Grundprädikat, das eine nicht weiter analysierbare Beziehung zwischen Aussagen oder »Gedanken« (Frege) und der Wirklichkeit bezeichnet. Eine »Theorie« der W. kann es dann nur in einem sehr eingeschränkten Sinn geben. – Dennoch sind immer wieder Wahrheitskriterien formuliert und häufig auch in Wahrheitsdefinitionen verwendet worden. Während das Evidenzkriterium meist mit einem Wahrheitsbegriff im Sinne der starken Korrespondenztheorie zusammengeht (Descartes, Brentano, Husserl), beruhen die Kohärenztheorie, die Konsenstheorie und die sogenannte pragmatische Theorie (Nützlichkeit als Wahrheitskriterium) zumeist auf der verifikationistischen Voraussetzung, dass die W. einer Aussage nicht unabhängig von der Möglichkeit sein kann, diese W. festzustellen. Man bezeichnet sie daher auch als epistemische Wahrheitstheorien. So vertritt insbesondere Dummett die Auffassung, dass W. mit gerechtfertigter Behauptbarkeit zusammenfällt. Die damit verbundenen Veränderungen in unserem Verständnis von Logik und Metaphysik (Aufgabe der zweiwertigen Logik, keine Tatsachen über die entfernte Vergangenheit etc.) sprechen jedoch gegen diesen Vorschlag. Andererseits steht aber eine Wahrheitstheorie, die unserem alltäglichen Vorverständnis wie auch allen philosophischen Anforderungen gerecht wird, noch aus.

MW

LIT:

  • M. Fleischer: Wahrheit und Wahrheitsgrund. Berlin/New York 1984
  • W. Franzen: Die Bedeutung von wahr und Wahrheit. Freiburg/Mnchen 1982
  • H. D. Heckmann: Was ist Wahrheit. Heidelberg 1981
  • A. Hoven: Wege zur Wahrheit. Frankfurt 1989
  • P. Horwich: Truth. Oxford 1990
  • R. L. Kirkham: Theories of Truth. Cambridge 1992
  • B. L. Puntel: Wahrheitstheorien in der neueren Philosophie. Darmstadt 1983
  • Ders.: Grundlagen einer Theorie der Wahrheit. Berlin/New York 1990
  • Ders. (Hg.): Der Wahrheitsbegriff. Darmstadt 1986
  • G. Skirbekk (Hg.): Wahrheitstheorien. Frankfurt 1977.