TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

truth

chân lý

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

sự không đảo

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

độ chinh xác

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

dộ đóng trục

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

dộ song song

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

độ chính xác

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

độ đổng trục

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

độ song song

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

chân thực tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

xác thực

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

chân tướng.<BR>absolute logical ~ Chân lý tuyệt đối lý luận tính .<BR>logical ~ Lý luận tính chân lý

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Chân lý

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Chân thực

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Chân xác

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

đế

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

chân thực

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Lẽ thật.

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Chân

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

chân lý/sự thật

 
Từ điển triết học HEGEL

sai lầm và đúng đắn

 
Từ điển triết học HEGEL

sự thật

 
Từ điển triết học HEGEL
the truth

chơn lí

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

thật đế

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Anh

truth

truth

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học Kant
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Từ điển triết học HEGEL

truthfulness

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

rightness

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

reality

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

dogma

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

axiom

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

true

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

falsity and correctness

 
Từ điển triết học HEGEL
the truth

the truth

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

the reality

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Đức

truth

Wahrheit

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Từ điển triết học HEGEL

Wahrhaftigkeit

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Richtigkeit

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

wahrheit*

 
Từ điển triết học HABERMAS

falschheit und richtigkeit

 
Từ điển triết học HEGEL
Truyện Những giấc mơ của Einstein (Anh-Việt)

In truth, these birds are rarely caught.

Quả thật hiếm khi bắt được lũ chim.

In truth, she loves him back, but she cannot put her love in words.

Quả thật, nàng cũng đáp lại tình yêu của chàng, có điều không biết nói ra thành lới.

Từ điển triết học HEGEL

Chân lý/Sự thật, Sai lầm và Đúng đắn [Đức: Wahrheit, Falschheit und Richtigkeit; Anh: truth, falsity and correctness]

Tính từ wahr (“đúng thật”/Anh: “true”) cùng gốc với từ La-tinh verus và có nghĩa nguyên thủy là “đáng tin cậy”. (Chữ “true” trong tiếng Anh cùng gốc với chữ “treu” trong tiếng Đức, cũng có nghĩa là “đáng tin cậy”, “trung thành”). Từ đó có danh từ (die) Wahrheit (“chân lý”, “sự thật”; Anh: “truth”) và tính danh từ “das Wahre” (“cái đúng thật”). Falsch, giống chữ “false” trong tiếng Anh, cùng gốc với từ La-tinh/ữ/sus, và có nghĩa nguyên thủy là “không trung thành, đáng khinh, lừa dối”. Từ đó có danh từ (die) Falschheit (“sự sai lầm”) và das Falsche (“cái sai lầm, cái không đúng thật”, Anh: “the false” V.V.). Wahr gần với “richtig”, cùng gốc với Recht và chữ La-tinh rectus (“thẳng”, “đúng đắn”) và có nghĩa nguyên thủy là “thẳng thắn”. Ngày nay, có nghĩa là “đúng đắn” (Anh: “correct”), và trùng nghĩa với “real”, “quite” trong tiếng Anh, như trong “a real (quite) success” (“một thành công thực sự”) v.v.

Wahr và Wahrheit, giống như “true” và “truth” trong tiếng Anh, không chỉ áp dụng cho lòng tin, nhận định V.V., mà cả cho sự vật, như trong “một nghệ sĩ, một người bạn đích thực/đúng thật” v.v. Cách dùng này có tiền lệ từ thời cổ đại: Plato áp dụng alẽthẽs (“đúng thật, không lừa dối”) và alẽtheia (“sự thật, chân lý, thực tại, không lừa dối”) cho sự vật, nhất là cho những gì thuộc tri thức (episteme) hon là đơn thuần thuộc tư kiến (doxa). Trong Cộng hòa, Plato cho rằng mô thức tối cao (mô thức “sự Thiện”) mang lại chân lý cho những gì được nhận thức, giống như mặt trời soi sáng những vật thể trên mặt đất. Nhưng, Aristoteles lại loại bỏ chân lý ra khỏi sự vật và chỉ dành nó cho các PHÁN ĐOÁN: một phán đoán là đúng thật nếu nó bảo cái tồn tại là tồn tại hoặc bảo cái không tồn tại là không tồn tại. Syrianus nhấn mạnh rằng “không có gì có thể là đúng hoặc sai một cách chặt chẽ, ngoại trừ ở trong sự khẳng định và phủ nhận”. Đi vào triết học kinh viện, định nghĩa này của Aristoteles trở thành adaequatio rerum et intellectus, “sự tương ứng giữa sự vật và tâm trí”. Nhưng, ý tưởng rằng sự vật cũng như phán đoán đều có thể là đúng hoặc sai lại có mặt trong Soliloquies của St. Augustino và các tác giả về sau, cùng với ý tưởng rằng Thượng Đế là đúng thật hay là Chân lý tối cao và chuyển trao chân

lý ấy cho những sự vật khác như chúng đang có. Vào thế kỷ XVIII, chân lý quan hệ mật thiết với các QUY LUẬT TƯ DUY. Một phán đoán đúng phải phù hợp với các quy luật của tư duy, nhất là với quy luật về [loại trừ] mâu thuẫn. Trong PPLTTT, A294, B350, Kant nói rằng “yếu tố hình thức của mọi chân lý là ở chỗ nhất trí với những quy luật của GIÁC TÍNH”.

Hegel dùng chữ wahr và Wahrheit theo những cách khác thường. Ông bác bỏ cách dùng của Aristoteles, và xem một phán đoán, chẳng hạn: “Hoa hồng này [là] đỏ” chỉ có thể là richtig [“đúng đắn”] chứ không phải wahr [“đúng thật”]. Ông áp dụng wahr và Wahrheit trước hết cho khái niệm và sự vật. Nhưng, ông có xu hướng tin rằng chỉ có THƯỢNG ĐỂ hay cái TUYỆT ĐỐI mới thực sự là đúng thật. Cách dùng của ông khai thác và phát triển nhiều chiều kích khác nhau trong cách dùng trước đó:

1. Hegel liên hệ cách dùng chữ wahr của ông với các cách nói như “người bạn đúng thật/đích thực”, “tác phẩm nghệ thuật đúng thật/đích thực” (BKT I, §§ 24A.2, 172A., 214A.). Theo ông, người bạn đúng thật/ đích thực là người bạn tương ứng với KHÁI NIỆM “người bạn”, và tác phẩm nghệ thuật đúng thật/đích thực tương ứng với khái niệm “tác phẩm nghệ thuật”. Nhưng, thật ra, không một thực thể HỮU HẠN nào là tương ứng hoàn toàn với khái niệm của nó. Nó vướng vào các mối quan hệ với những sự vật khác; chúng chuyển trao những đặc điểm vốn không được khái niệm của nó quy định. Vì thế, không có vật gì là “đúng thật” một cách chặt chẽ, ngoại trừ cái TOÀN BỘ, là cái không có những sự vướng mắc ngoại tại và, do đó, hoàn toàn nhất trí với khái niệm của nó. Trong Lô-gíc học, cái toàn bộ này là, hay, được thể hiện bởi Ý NIỆM tuyệt đối, trong đó khái niệm là hoàn toàn tương ứng với THựC TẠI.

2. Hegel chấp nhận quan niệm rằng cái gì đó chỉ có thể là “đúng thật” nếu nó không tự-mâu thuẫn. Nhưng, không chỉ những phán đoán, lòng tin v.v. mới có thể tự mâu thuẫn. Ngay cả Leibniz và Kant cũng đồng ý rằng một khái niệm có thể tự-mâu thuẫn, và, vì thế, là sai, xét theo tiêu chuẩn của chính nó. Một người bạn sai lầm hay một tác phẩm nghệ thuật hỏng là tự-mâu thuẫn, theo cả hai nghĩa: nó không đạt được hay “mâu thuẫn” với khái niệm của nó, và (thường, hay ít nhất) là thiếu sự nhất trí nội tại. Trong thực tế, bất kỳ thực thể hữu hạn nào, dù là sự vật hay khái niệm, đều tự-mâu thuẫn, ít ra là khi nó bị thoát ly khỏi các mối quan hệ của nó với những sự vật hay khái niệm khác. Như thế, một lần nữa, chỉ có cái toàn bộ mới là “đúng thật”, bởi cái toàn bộ thì không phải hữu hạn, nên VƯỢT BỎ những mâu thuẫn trong các bộ phận của nó.

3. Hegel cũng chấp nhận định nghĩa về chân lý như là aảaequatio rerum et intellectus, nhưng ông lại tái diễn giải định nghĩa này, chẳng hạn, như là “sự đồng nhất giữa TƯ DUY và TỒN TẠI”, hay “sự nhất trí giữa cái CHỦ QUAN và cái KHÁCH QUAN”. Nhưng, sự nhất trí hoàn toàn giữa tư duy và tồn tại không thể tìm thấy trong phán đoán, chẳng hạn, như trong: “hoa hồng này [là] đỏ”. Tư tưởng ấy của tôi về [màu sắc của] hoa hồng không thể nắm bắt chân lý toàn bộ về hoa hồng, về mùi hương của nó, V.V., nói gì đến toàn bộ chân lý về tồn tại nói chung. Đóa hồng có thể héo úa, và như thế là không phù hợp với khái niệm “hoa hồng” được tôi áp dụng cho nó; và ngay cả khi nó tươi tốt đi nữa thì, do là một thực thể hữu hạn, cũng không tương ứng với những khái niệm được tôi áp dụng cho nó. Những phán đoán thuộc loại này tiền giả định rằng tôi và tư duy của tôi là được phân biệt với những ĐỐI TƯỢNG của phán đoán, và tuy tư duy của tôi là “đúng đắn” (“richtig”/ Anh: “correct”), nó vẫn không trùng khít với đối tượng của nó. Do đó, Hegel chỉ nhìn thấy sự trùng khít này giữa tư duy và tồn tại, giữa cái chủ quan và cái khách quan ở trong Ý NIỆM tuyệt đối, tức, trước hết trong vũ trụ xét như cái toàn bộ, và khái niệm về nó, cũng như trong TƯ DUY lô-gíc, thuần túy của ta, hay trong tư duy của ta về bản thân tư duy.

4. Hegel không hề chủ trương rằng vậy ta hãy ngưng không đưa ra những phán đoán, chẳng hạn, về hoa hồng. Nhưng, ông nhấn mạnh rằng phán đoán hay MỆNH ĐỂ không phải là hình thức thích hợp cho việc tư duy về những gì là hoàn toàn đúng thật, như về Thượng Đế, về cái tuyệt đối, ý niệm, TINH THẨN v.v. Một trong những lý do của điều này là: hình thức phán đoán ngụ ý rằng chủ ngữ của phán đoán là một sự VẬT, một cơ chất (substratum) mang theo nhiều thuộc tính vốn không nối kết với nhau một cách nội tại. Nhưng, cho dù hoa hồng là một vật thuộc loại này đi nữa, thì cái tuyệt đối, tinh thần lại không thể như thế. (Những) QUY ĐỊNH TƯ DUY tạo nên bản chất của chúng không cố hữu trong một cơ chất mà liên hệ qua lại với nhau một cách BIỆN CHỨNG.

5. Chỉ có cái tuyệt đối, ý niệm v.v. mới là “đúng thật” một cách chặt chẽ. Nhưng, Hegel cũng thường xem một khái niệm, một hình thái ý thức, một cấp độ của giới tự nhiên hay một giai đoạn lịch sử là Wahrheit [“chân lý”, “sự thật”] của một hay nhiều tiền thân của nó trong trình tự khái niệm hay trong diễn trình lịch sử, cho dù nó chưa phải là giai đoạn sau cùng, nghĩa là, chưa phải là “chân lý hay sự thật tuyệt đối”. Vì thế, TRI GIÁC là chân lý/sự thật của sự XÁC TÍN CẢM TÍNH; sự TRỞ THÀNH là chân lý/sự thật của TỒN TẠI và HƯ VÔ; MỤC ĐÍCH LUẬN là chân lý/sự thật của Cơ GIỚI LUẬN và HÓA HỌC LUẬN. Cách sử dụng này bao hàm mấy ý tưởng sau đây:

(a) Nếu cái gì đó là chân lý/sự thật của cái đi trước của nó, thì, dù nó chứa đựng những mâu thuẫn của riêng nó và sẽ xuất hiện ra sau này, nhưng nó giải quyết và thoát khỏi những mâu thuẫn đã được chứa đựng trong cái đi trước.

(b) Nó là, hay hiện thân, khái niệm mà cái đi trước của nó đã nỗ lực thực hiện, nhưng đã không thể hiện thực hóa một cách thích đáng mà không thay đổi thành một cái gì khác. Tưong tự như thế, ta có thể Sổ thảo một bài báo, nhưng không thể thực hiện trọn vẹn các ý định có trong đầu nếu không mở rộng nó thành một công trình khảo cứu. (Điều này không có nghĩa rằng công trình khảo cứu, khi đã hoàn tất, là chung quyết và không cần có thay đổi nào trong lần tái bản).

(c) Chân lý/sự thật của cái đi trước không đon giản thế chỗ cho nó, mà chứa đựng hay vượt bỏ những gì là đúng thật ở trong nó. (Công trình khảo cứu chứa đựng những gì “đúng thật” ở trong bài báo Sổ thảo).

6. “Chân lý/sự thật” của một cách nói cho thấy chân lý không đon giản là đối lập với sai lầm và thiếu sót. Sai lầm, thiết sót sẽ phát triển thành chân lý và được vượt bỏ trong chân lý. Tưong tự như thế, những thực thể hữu hạn hay “sai lầm” bên trong vũ trụ không đon giản là đối lập với cái đúng thật hay với cái VÔ HẠN, trái lại, được vượt bỏ trong nó. Hölderlin cũng có cái nhìn tưong tự: “Chân lý đúng thật nhất chỉ có thể là cái trong đó sai lầm cũng trở thành chân lý, bởi chân lý, trong hệ thống toàn bộ của nó, thiết định cái sai lầm đúng lúc và đúng nổi”. Vì thế, khi Hegel phê phán các triết gia khác, chẳng hạn, phê phán Spinoza hay Jacobi, ông có xu hướng cho rằng không phải quan niệm của Spinoza hay Jacobi là sai lầm, trái lại, quan niệm ấy phát triển thành quan niệm của ông.

Quan niệm của Hegel về chân lý nhất quán với các phương diện khác trong tư duy của ông:

(1) Chân lý của cái gì đó, dù là của tư tưởng hay sự vật, không tách bạch với giá trị hay ý nghĩa của nó. Một tác phẩm nghệ thuật “đúng thật/ đích thực” cũng ipso facto [từ bản thân sự việc] là một tác phẩm hay, đẹp. Ngược lại, Hegel rất khinh ghét khi phải gọi một nhận định tầm thường, hiển nhiên nào đó là nhận định “đúng thật”.

(2) Một chân lý/sự thật phân mảnh đóng khung trong một hệ thống khái niệm hay một lý thuyết khoa học một cách không tương ứng thì không thể là “đúng thật” theo nghĩa chặt chẽ. Vì thế, “chân lý” và “sai lầm” có mặt trước hết trong hệ thống khái niệm hay lý thuyết khoa học làm khuôn khổ chung cho phán đoán, hơn là trong bản thân phán đoán ấy.

(3) Thế giới tạo nên một HỆ THỐNG liên kết lẫn nhau, khiến cho không một tư tưởng hay phán đoán phân mảnh, riêng lẻ nào có thể là “đúng thật” hay tương ứng với cả hệ thống.

(4) Có một sự hội tụ tối hậu và một sự song hành sâu sắc giữa thế giới và tư tưởng của ta về nó. Cho nên, chúng phải vừa đúng thật (hoặc sai lầm) cùng với nhau. (Xem: DUY TÂM (thuyết)).

(5) Chân lý của một nền triết học, và sự bất khả xâm phạm của nó trước thuyết HOÀI NGHI, không phụ thuộc vào, chẳng hạn, sự tương ứng của nó với những sự kiện, trái lại, phụ thuộc vào sự mạch lạc nội tại và sự bao quát toàn diện của nó.

Bùi Văn Nam Sơn dịch

Chất, Lượng và Hạn độ (Đức: Qualität, Quantität und Mass; Anh: quality, quantity and measure)

Phần chính thứ nhất của Lô-gíc học, Học thuyết về TỒN TẠI, được chia làm ba chương: Chất, Lượng và Hạn độ.

1. Qualität là chữ được vay mượn từ chữ qualitas trong tiếng La- tinh ở thế kỷ XVI, đến lượt nó, qualitas bắt nguồn từ chữ qualis (“thuộc loại nào?”). Theo cách dùng thông thường, nó là (a) một mức độ ưu trội (về “phẩm chất kém, phẩm chất tốt”, v.v.) hoặc (b) sự ưu trội hon cả (“chúng tôi lo về chất, chứ không lo về lượng”). Trong triết học, nó là một “thuộc tính”; Hegel đặt nó ngang hàng với chữ Bestimmtheit (TÍNH QUY ĐỊNH, sự quy định/Anh: determinacy, determinateness). Chất của một PHÁN ĐOÁN là tính khẳng định, tính phủ định hoặc tính vô hạn của phán đoán ấy. (Hegel có xu hướng hòa lẫn chất của phán đoán với việc phán đoán gán một chất cho cái gì đó). Böhme liên kết Qualität với Quai (sự đau đớn, sự dằn vặt, nỗi thống khổ) và đề xuất các chữ Qualierung và Inqualierung để chỉ sự xung đột qua đó một chất tự tạo ra mình và duy trì sự tồn tại của mình. Sự kết hợp này không có Cổ sở từ nguyên học nào cả.

Trong Tô-gíc học, Qualität vừa là đề mục chung bao quát cả: tồn tại, TỒN TẠI NHẤT ĐỊNH, và tồn tại CHO MÌNH, vừa là một mô-men của tồn tại nhất định. Chất khác với THUỘC TÍNH (Eigenschaft) ở chỗ (a) thuộc tính cũng là một sức mạnh, tác động đến những sự vật khác (ví dụ: “cà phê có thuộc tính là làm cho ta tỉnh táo”), trong khi đó, chất thì thụ động hon, và (b) một thuộc tính thuộc về một sự VẬT, nó có thể tồn tại lâu bền qua những thay đổi trong các thuộc tính của nó, trong khi đó, một thực thể, theo Hegel, được cấu tạo bởi chất của nó và không thể nào tiếp tục tồn tại được một khi chất của nó không còn. Nhìn chung, chất chuyển sang lượng theo cách tồn-tại-cho-mình, - là cái tồn tại chỉ quan hệ với chính mình chứ không quan hệ với bất cứ cái gì khác -, không còn có một chất nhất định nữa và trở thành một nguyên tử hay một đon vị, đến lượt nó, nguyên tử hay đon vị này sản sinh ra các nguyên tử hay các đon vị khác bên cạnh bản thân nó.

2. Quantität được vay mượn từ chữ Ta-tinh quantitas vào thế kỷ XVI; chữ quantitas này có gốc từ chữ quatus (“lớn bao nhiêu, nhiều bao nhiêu, có bao nhiêu?, nhiều, V.V., như...”). Danh từ giống trung của quantus là chữ quantum, mang lại cho tiếng Đức (thế kỷ XVII) chữ Quantum, một lượng riêng hay một đại lượng. Chữ Grösse trong tiếng Đức bản địa (“kích cỡ, độ lớn, lượng”, từ chữ gross “lớn, rộng, to”) thì lưng chừng giữa Quantität và Quantum; Hegel thường đặt nó ngang hàng với Quantum. Tượng của một phán đoán là tính PHỔ BIỂN, tính ĐẶC THÙ hay tính CÁ BIỆT của phán đoán ấy.

Theo cách hiểu truyền thống, lượng được xem là (a) gián đoạn (diskret) hoặc liên tục (kontinuierlich, stetig) và (b) (có tính) (“quảng tính”, “trưong độ” (extensiv(e)) hoặc (có tính) “cường độ” (intensiv(e)):

(a) Các số tự nhiên (1, 2, 3, 4...) là gián đoạn: nếu ta tự giới hạn mình vào dãy số này, thì sẽ không có con số nào nằm giữa hai số hạng liền kề trong dãy số đó (ví dụ, giữa 3 và 4). Các số tự nhiên thích hợp cho việc đếm, ví dụ, những dấu chấm nhỏ trên giấy hay những con bò trên cánh đồng: mỗi con bò có thể được chia thành những bộ phận, nhưng điều này không thích hợp nếu một người nào đó chỉ đon giản muốn đếm số bò của anh ta. Nếu chúng ta thêm các phân số và các số vô tỉ (chẳng hạn V 2 ) thì dãy số sẽ trở nên liên tục và thích hợp cho việc đo lường, ví dụ như đo một đường thẳng hay chiều dài của một con bò. Hegel xem bất kì lượng hay đại lượng nào cũng đều vừa liên tục vừa gián đoạn. Một lượng được coi là gián đoạn hay liên tục tùy thuộc vào điểm nhìn hay mối quan tâm của ta: có 6 con bò (riêng lẻ, [tức gián đoạn]), nhưng xếp nối đuôi nhau thì chúng nối dài thành 10 mét; 10 mét này là một đại lượng liên tục, có thể tiếp tục được chia thành những phần, ví dụ, của một mét, nhưng nó cũng là một đại lượng gián đoạn, mười cái một mét giống hệt nhau, giống như sáu con bò vẫn là sáu con bò riêng lẻ dù chúng có xếp hàng nối đuôi nhau. Hegel xem đây là giải pháp cho nghịch lý thứ hai của Kant, tức là, vật chất vừa bao gồm những bộ phận đon giản lại vừa có thể phân chia vô hạn: vật chất, theo Hegel, có thể được coi hoặc là gián đoạn, gồm một số lượng nhất định của các bộ phận với những kích cỡ riêng, hoặc là liên tục, có thể phân chia ad infinitum (đến vô hạn) thành những bộ phận nhỏ hon nữa, và vì vậy nó vừa gián đoạn vừa liên tục. (Đây chỉ là biện pháp tránh né vấn đề của Kant: vật chất hoặc là liên tục theo nghĩa, về nguyên tắc, nó có thể được phân chia ad infinitum, hoặc là gián đoạn theo nghĩa nó không thể được phân chia đến vô hạn).

(b) Một lượng có thể là lượng quảng tính (số con bò trên cánh đồng, độ chiếm chỗ của một vật nào đó trong không gian hay thời khoảng của một sự biến trong thời gian) hoặc có thể là lượng cường độ (sức mạnh của một lực, trọng lượng của một vật nào đó, Grad hay “độ” trên thang nhiệt độ của nó). Lượng cường độ đôi khi hoạt động như lượng quảng tính: trọng lượng của 2 pao (pound = 0, 4536 kg), dù ta có dùng hệ thống đo lường nào đi chăng nữa, thì cũng nặng gấp hai lần trọng lượng của 1 pao, và trọng lượng cả thảy của chúng là 3 pao. Nhưng không phải lúc nào cũng thế: 1 panh (pint = 0, 571) nước ở nhiệt độ 90°C không nóng gấp hai lần một panh nước ở nhiệt độ 45°C; vì tỉ lệ giá trị bằng số của nhiệt độ sẽ khác nhau khi các hệ thống đo lường khác nhau; nếu hai panh nước, mỗi panh 45°c, trộn lẫn lại với nhau, cả hai panh đều 45°c chứ không phải 90°C. Hegel cho rằng, bất kì một lượng nào cũng phải vừa là quảng tính vừa là cường độ, vì, ví dụ, một thực thể không những phải có kích cỡ và độ dài thời gian mà còn phải có một chất khu biệt nào đó và vì thế phải có một độ nhất định của chất ấy; và lượng cường độ chỉ có thể được đo bằng mối tưong quan của nó với một lượng quảng tính, ví dụ mối tưong quan của nhiệt độ với chiều cao của thủy ngân trong ống nhiệt kế.

Trong KHLG, Hegel dành nhiều trang để xem xét tính vô hạn của số học và toán học. Ông xem số học như một ngành khoa học của GIÁC TÍNH, không thích hợp để áp dụng vào các đối tượng của triết học. Ông chỉ trích Schelling vì đã áp dụng những xem xét có tính định lượng vào cho cái TUYỆT ĐỐI, làm cho sự phân đôi của cái tuyệt đối thành tự nhiên và tinh thần phụ thuộc vào sự ưu trội về lượng của cái khách quan so với cái chủ quan hay ngược lại, và sử dụng khái niệm “lũy thừa” (Potenz) trong toán học đối với một giai đoạn tồn tại hay phát triển. Tuy nhiên, ông cố gắng diễn dịch và hệ thống hóa các phép tính số học khác nhau. Hegel cho rằng toán học chỉ bàn về lượng mà thôi, vì ông không biết gì về môn phi định lượng ngoại trừ môn topo trong toán học, cho dù các yếu tố của nó ẩn ngầm trong nghiên cứu của ông về hạn độ.

Quantum, giống như một cái gì đó bị hạn định (Etwas), bao hàm một RANH GIỚI, và tính VÔ HẠN về lượng là ở chỗ nó liên tục vượt ra khỏi giới hạn. Khác với giới hạn của cái gì đó, giới hạn của một Quantum thì “dứng dưng” (gleichgültig): một cái gì đó hay một chất được giới hạn bởi một cái gì đó khác với nó (ví dụ: màu đỏ khác với màu xanh, và một vật màu đỏ nằm kế tiếp một vật màu xanh), nhưng một đại lượng xét như là một đại lượng thì không được giới hạn bởi bất cứ cái gì khác với nó, về chất hay về lượng: chẳng hạn, một phạm vi của một không gian trống được giới hạn bởi một không gian trống hơn nữa, vì vậy nó dửng dưng với việc ranh giới được vạch ra ở đâu. Các đặc tính về chất đòi hỏi phải có những ranh giới không tùy tiện giữa các sự vật.

Nghiên cứu về lượng kết thúc bằng tỷ lệ (Verhältnis/Anh: ratio, proportion), tức TƯƠNG QUAN giữa hai biến số, chẳng hạn như X : 2x. Giá trị của các biến có thể tăng một cách bất định (ví dụ: 2 : 4, 3 : 6, 4 : 8...), nhưng tỉ lệ của chúng không thay đổi. Theo Hegel, đây là một sự tái xuất hiện của chất, đặc điểm bền vững của một thực thể, bên trong phạm vi của lượng, mà đặc điểm của nó là có thể được tăng hoặc giảm một cách bất định. Vì vậy, chất và lượng thống nhất ở hạn độ.

3. (Das) Mass (“hạn độ”/Anh: measure) có liên quan đến messen (nguyên nghĩa là “vẽ ranh giới, khoanh vùng” (một khu vực), và nay có nghĩa là “đo lường”). Chữ này có một lịch sử phức tạp với nhiều tầng nghĩa, thường gồm những nghĩa khác nhau của động từ messen và các nghĩa phái sinh của nó: (1) số lượng được phân phối (zugemessen) cho một người, lượng chính xác, khu vực đã được phân ranh giới; (b) cách, cách thức (làm việc gì); (c) cái thích hợp hay phù hợp (angemessenes); (d) sự tiết độ, sự chế ước (Mässigung). Nghĩa hiện thời của nó là “hạn độ, tỉ lệ (Verhältnis), chiều kích, độ (Grad), sự tiết chế, (trọng lượng và) hạn độ”. Chữ Mass (hạn độ) có hình thức giống cái (die Mass (e)) có nghĩa: (a) “hạn độ”, chẳng hạn, lít của bia, và (b) “sự tiết chế, đúng mực”, và nghĩa hiện thời đặc biệt là trong các ngữ thức như über alle Massen (quá độ, vượt qua mọi giới hạn). Nó xuất hiện ở nhiều từ ghép: Massregel (quy tắc- đo lường, tức là một quy tắc hướng dẫn, một bước hay một sự đo lường được tiến hành); Massstab (“gậy đo, thước đo, cân, mức độ, tiêu chuẩn”). Chữ Messen (“đo lường”) cũng mang lại chữ Durchmesser (“qua-dụng cụ đo”, tức là đường kính) và Erdmesser (“dụng cụ đo trái đất”, tức là đường trắc địa).

Hầu hết các nghĩa và các kết hợp này đều xuất hiện trong nghiên cứu của Hegel về hạn độ, như chữ modus trong tiếng La-tinh (thức đúng cách, quy tắc, phương cách, thể cách, nhất là thể cách của một thuộc tính ở Spinoza) và ý tưởng của người Hy Lạp về sự tiết độ và về những giới hạn mà việc vượt ra khỏi chúng tất bị báo ứng. Tuy nhiên, ý tưởng chính của Hegel là: chất và lượng của một thực thể thoạt đầu là độc lập với nhau. Một cánh đồng dù lớn hay nhỏ gì thì cũng vẫn là một cánh đồng. Nước dù nóng hay lạnh gì thì nước vẫn là nước. Nhưng cả trong lượng quảng tính lẫn lượng cường độ, có những giới hạn mà vượt qua chúng thì sự biến đổi về lượng sẽ tạo ra sự biến đổi về chất. Các sinh thể hữu cơ không thể thay đổi kích thước của chúng trong khi vẫn giữ nguyên hình dạng như trong những câu chuyện thần tiên: một gã khổng lồ có cùng hình dạng với một người bình thường, nhưng lớn hơn gấp 10 lần, ắt sẽ bị gãy chân vì khổ người và sức mạnh của gã không gia tăng theo tỉ lệ với trọng lượng của gã. Nếu mọi thứ đều được nhân đôi về kích thước thì ta ắt sẽ nhận biết được ngay trọng lượng phụ trội khi ta mang chúng. Khi một đứa bé tăng trưởng về kích thước, cái đầu của nó trở nên nhỏ hơn trong tương quan với cơ thể của nó.

Nhưng, như những nút thắt trên sợi dây, Hegel tập trung vào những trường hợp ở đó những biến đổi về chất chỉ diễn ra một cách không liên tục trong diễn trình biến đổi liên tục về lượng: nước, được đun nóng đủ, trở thành hơi nước, và, được làm lạnh đủ sẽ đóng băng; việc nó trải qua những biến đổi về chất như thế là thiết yếu nếu ta phải đo nhiệt độ của nó. Điều này gợi nên viễn tượng về một sự tăng và giảm không vô hạn, ví dụ, như nhiệt độ, được “thắt nút” tại những khoảng dừng bởi sự vô hạn của những thay đổi về chất. Nhưng, Hegel coi sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chất và lượng như là việc chỉ ra cái BẢN CHÂT làm nền tảng cho chúng.

Cù Ngọc Phương dịch

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

truth,true

[EN] truth; true

[DE] Wahrheit

[VI] Chân

[VI] thực

Từ điển triết học Kant

Chân lý [Hy Lạp: aleitheia; Latinh: veritas; Đức: Wahrheit; Anh: truth]

Xem thêm: Phân tích pháp, Hiện tượng, Xác tín (sự), Xem-là-đúng (sự), Ảo tượng,

Câu trả lời của Kant cho câu hỏi “chân lý là gì” được trình bày dựa vào “tiêu chuẩn phổ biến và chắc chắn để biết được chân lý của một nhận thức” (PPLTTT A58/ B82). Sau khi xem xét định nghĩa duy danh được xem là đương nhiên về chân lý như “sự trùng hợp của nhận thức với đối tượng của nó” (A58/ B82), ông tuyên bố rằng không thể có tiêu chuẩn phổ biến nào “có giá trị cho mọi nhận thức không phân biệt những đối tượng của chúng” (A58/ B83). Tuy nhiên, trong khi điều này là đúng với nội dung của nhận thức, thì ta có thể xác lập một tiêu chuẩn logic, tiêu cực về chân lý trong chừng mực “những quy luật phổ biến và tất yếu của giác tính” (A59/ B84) được logic học trình bày như là một điêu kiện không thể thiếu [conditio sine qua non]. Bởi lẽ, “cái gì mâu thuẫn lại với những quy luật ấy là sai” (sđd) mặc dù sự trùng hợp với những quy luật này tự nó không phải là một tiêu chuẩn đầy đủ của chân lý.

Bên trong khuôn khổ phê phán, quan niệm về “sự trùng hợp của một nhận thức với đối tượng của nó” mang một ý nghĩa mới, đặc biệt là dưới ánh sáng của tiên đề cơ sở của nó phát biểu rằng “những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm” (PPLTTT A158/ B197). Điều này có nghĩa là những điều kiện của kinh nghiệm qui định sự trùng hợp giữa nhận thức và đối tượng, hay như Kant nói, “kinh nghiệm mang lại cho ta quy luật và là nguồn suối của chân lý” (A318/ B375). Những điều kiện của kinh nghiệm bao gồm những hiện tượng được mang lại thông qua trực quan tiên nghiệm và được tổng hợp bằng những khái niệm tiên nghiệm thuần túy của giác tính. Vì thế, Kant có thể nói rằng sự tổng hợp những yếu tố này “như là nhận thức tiên nghiệm, lại chỉ có được chân lý (là sự trùng hợp với đối tượng) là khi nó không chứa đựng gì khác hon là những gì tất yếu cần thiết để mang lại sự thống nhất tổng hợp của kinh nghiệm nói chung (A158/ B197). Điều này phải bao gồm, như Kant giải thích kỹ, “những điều kiện mô thức của trực quan tiên nghiệm, sự tổng hợp của trí tưởng tượng và sự thống nhất tất yếu của tổng hợp ấy trong một Thông giác siêu nghiệm” (A158/ B197). Với lập luận này, Kant bác bỏ bất kỳ quan điểm nào theo thuyết Platon xem chân lý như là sự phù hợp giữa nhận thức với một ý niệm, đồng thời cũng bác bỏ một sự đánh đồng kiểu Platon giữa cảm năng và ảo tượng. Những hiện tượng không còn được xem như những ảo tượng nữa, mà là một yếu tố bản chất của kinh nghiệm và do đó, là của chân lý.

Bên cạnh nghiên cứu này về chân lý như là “sự phù hợp với đối tượng”, Kant cũng trình bày một chân lý được trình bày dựa theo tính giá trị hiệu lực. Trong phiên bản này, chân lý được bàn luận dựa vào “việc xem-là-đúng” hay tính giá trị hiệu lực chủ quan và khách quan của các phán đoán. Nó có ba mức độ: tư kiến, tức cái có ý thức nhưng không đầy đủ cả về mặt chủ quan lẫn khách quan; lòng tin, tức cái có ý thức chỉ đầy đủ về mặt chủ quan nhưng không đầy đủ về mặt khách quan; tri thức, tức cái đầy đủ cả hai mặt chủ quan lẫn khách quan và do đó là sự xác tín (PPTTTT A822/ B850). Tuy nhiên, quan niệm về sự đầy đủ khách quan có thể được đưa ra để bao hàm bên trong nó định nghĩa về “chân lý như sự phù hợp với đối tượng” (A58/ B82).

Hoàng Phong Tuấn dịch

Từ điển triết học HABERMAS

Chân lý [Đức: Wahrheit*; Anh: Truth]

Habermas đã tiếp cận vấn đề triết học về chân lý nhiều lần trong suốt sự nghiệp của mình (Habermas, 1971a; 1979a; 1984a; 1987; 1999; 2001c; 2003a). Mối quan tâm của ông với chân lý có các hình thức khác nhau tuỳ theo các lý thuyết bao quát rộng hơn vốn tiêu biểu cho các công trình của ông trong suốt các giai đoạn khác nhau, và nhất là đối với lý thuyết về những lợi ích hay quan tâm về nhận thức/cognitive interests vào những năm 1960, và lý thuyết sau đó về hành động giao tiếp hay tương giao/communicative action. Phác thảo chính của các luận cứ này sẽ được xem xét ở đây, bắt đầu với giai đoạn sự nghiệp hậu kỳ của Habermas.

Vấn đề triết học về chân lý có thể được hiểu theo hai câu hỏi. Thứ nhất, chúng ta có thể hỏi, mô tả mệnh đề hay câu là đúng có nghĩa là gì. Nói cách khác, những điều kiện gì phải được thoả mãn để câu: ‘Habermas là triết gia’, chẳng hạn, là đúng? Thứ hai, chúng ta có thể khảo sát xem làm thế nào chúng ta xác lập rằng mệnh đề là đúng. Làm thế nào chúng ta tìm ra rằng các điều kiện được mong muốn này thực sự được thoả mãn? Hay, sử dụng thuật ngữ thường được chính Habermas sử dụng, làm thế nào chúng ta biện minh (justify) chân lý được yêu sách của mệnh đề? Triết học phân tích/Analytic philosophy và thuyết dụng hành/pragmatism đã khảo sát những câu hỏi này một cách rộng rãi, và Habermas rút ra từ cả hai các luận cứ của bản thân ông.

Trong lý thuyết chín muồi của ông, như được phát triển trong The Theory of Communicative Action (1984a; 1987), chân lý được hiểu như là một trong bốn ‘yêu sách về giá trị hiệu lực’/‘validity claims’. Tức là, bất cứ khi nào tôi nói bất cứ điều gì, những gì tôi nói sẽ chứa những giả định nhất định về thế giới bên ngoài. Ngay cả khi tôi đặt câu hỏi, chẳng hạn như ‘Bạn có thể đưa cho tôi tờ báo hôm nay không?’, thì tôi đang giả định rằng những gì tôi thấy thực sự là tờ báo hôm nay, mà bạn có thể lấy nó và chuyển cho tôi, v.v. Nếu bạn thách thức một giả định nào đó trong các giả định này (chẳng hạn, bằng việc quan sát rằng đó không phải số báo hôm nay, đó là số báo hôm qua), thì bạn đang thách thức chân lý của giả định của tôi. Điều này dẫn đến việc một phát biểu là đúng nếu các giả định mà nó tạo ra thực sự tương ứng với phương thức thế giới tồn tại (tức là, giả định trong câu hỏi của tôi ắt sẽ đúng nếu thực sự đó là tờ báo hôm nay). Trong triết học, điều này được biết như là lý thuyết tương ứng (correspondence) về chân lý—phát biểu tương ứng với phương thức thế giới tồn tại. Gần đây, Habermas đã đi đến chỗ nhấn mạnh tầm quan trọng của luận cứ này, dù cảm giác rằng nó bị xem nhẹ hay bỏ bê trong suy ngẫm thời kỳ đầu của ông về vấn đề chân lý. Ông tóm lược bằng cách lưu ý rằng kỳ cùng chúng ta phải chấp nhận phát biểu là đúng bởi vì nó đúng theo nghĩa này (2003a, tr. 8).

Tuy nhiên, điều này vẫn để ngỏ vấn đề thứ hai, làm thế nào ta tìm ra rằng thế giới thực sự là như lời phát biểu của tôi giả định, và vì thế, làm thế nào ta biện minh cho yêu sách của ta. Điểm quan trọng của Habermas ở đây là việc xác lập chân lý của lời phát biểu thường đặt ra một vấn đề phức hợp, nhất là vì chúng ta không hiển nhiên có sự tiếp cận trực tiếp với thực tại. Thực tại không tự nói lên chính nó. Kinh nghiệm của chúng ta được định hình bởi ngôn ngữ/language, bởi nền văn hoá và các giá trị của chúng ta, và bởi các mối quan tâm thực hành của chúng ta, và do đó chúng ta phải tạo ý nghĩa cho kinh nghiệm thô của mình, làm rõ mối liên quan của kinh nghiệm ấy với chúng ta. Vấn đề tờ báo tương đối đơn giản. Nếu tôi nghi ngờ lời của bạn, bạn có thể đưa tờ báo cho tôi, và tôi thấy số ngày hôm qua trên tờ đó. Ở đây tôi có bằng chứng thường nghiệm rằng giả định của tôi thực ra là sai. Tuy nhiên, lưu ý rằng ngay cả ở đây cũng có tranh luận, tuy thô sơ, giữa hai người xác lập chân lý của vấn đề. Việc xác lập chân lý của mệnh đề không thể dành cho một cá nhân duy nhất, vì một người có thể phạm sai lầm. Chẳng hạn, tôi nhìn vào ngày của tờ báo, nhưng tin tưởng một cách sai lầm rằng hôm nay là ngày 25 trong khi thực tế là ngày 26. Tôi cần bạn sửa lại hay xác nhận niềm tin của tôi. Do đó, chân lý của mệnh đề được xác lập thông qua thảo luận, việc trình ra bằng chứng thích hợp, và những biện minh tại sao bằng chứng đó thực sự là phù hợp. Tiến trình thảo luận dừng lại, một cách lý tưởng, khi mọi người có liên quan đều thấy hài lòng.

Ví dụ về tờ báo quá sức đơn giản, nhưng hãy xem xét khẳng định này: có chín hành tinh trong hệ mặt trời. Bằng chứng thường nghiệm bây giờ khó nắm bắt hơn nhiều, và tôi không thể đơn giản đẩy chín hành tinh đến ngay trước mũi người nghi ngờ tôi. Tranh luận có thể xảy ra sau đó trong cộng đồng các nhà khoa học về những gì được coi là bằng chứng cho hành tinh thứ mười—hay thậm chí liệu sao Diêm vương có xứng danh là một hành tinh hay không. Chính ở điểm này mà chúng ta cần thấy làm thế nào các bằng chứng mơ hồ có thể tồn tại. Tôi sẽ không cho bạn thấy một hành tinh, nhưng có thể cung cấp hình ảnh khá mơ hồ qua kính viễn vọng Hubble, hay thậm chí tinh vi hơn, chuỗi các phép đo của tính bất quy tắc trong các chuyển động của sao Hải vương và sao Thiên vương. Tiếp đó tôi phải biện minh rằng đây là bằng chứng về độ lớn của sao Diêm vương hay sự tồn tại của hành tinh thứ mười, chứ không phải là hình ảnh của sao chổi, một sai sót trong thiết kế của kính viễn vọng, hay tính bất thường trong chuyển động vốn có thể giải thích theo quỹ đạo của sao Mộc (và v.v.)

Ngay cả khi tất cả nhà thiên văn học trên thế giới đi đến chỗ đồng ý rằng sao Diêm vương thực sự đáng được gọi là hành tinh, và không có hành tinh thứ mười nào bị che giấu trong hệ mặt trời, thì vẫn có vấn đề. Trong khi ‘hệ mặt trời có chín hành tinh’ có thể được xem như đúng bây giờ, thì về nguyên tắc vẫn có khả năng sai. Trong tương lai, các phép đo tốt hơn, hay sự diễn giải tinh tế hơn về dữ liệu mà chúng ta có, có thể mở lại tranh luận. Điều Habermas đã làm ở đây là trả lời cho vấn đề thứ hai bằng cách gợi lên cái được biết đến như là lý thuyết đồng thuận về chân lý. Lý thuyết như thế cho rằng mệnh đề là đúng nếu tất cả (hay hầu hết) những người có được thông tin một cách thích hợp tại thời điểm nhất định tin rằng nó đúng. Lý thuyết như vậy có vấn đề bởi vì có vẻ tạo nên chân lý trong tương quan với một cộng đồng đặc thù những người tin tưởng (do đó, chẳng hạn, ‘có bảy thiên thể’ là đúng ở thời Hy Lạp cổ, nhưng bây giờ thì không đúng). Habermas tránh tương đối luận này bằng cách lập luận rằng quá trình của sự kiểm sai hay phản chứng (falsification), và sự thay thế sau đó của một niềm tin bởi một niềm tin khác, không phải là quá trình tuỳ tiện, mà đúng ta đó là quá trình được khép vào kỷ luật bởi tranh luận hợp lý tính. Kỳ cùng, ông tạo nên sự phân biệt giữa những gì trong thực tế ngày nay chúng ta chấp nhận là đúng, và những gì chúng ta chấp nhận là đúng trong các hoàn cảnh lý tưởng. Những gì được chấp nhận như là chân lý ngày nay là một bước trên con đường đi đến chân lý vô điều kiện. Có một giai đoạn, Habermas cho rằng chân lý vô điều kiện nhờ vào những gì ông gọi là hoàn cảnh phát ngôn lý tưởng/ideal speech situation, nghĩa là sự phóng chiếu các điều kiện hoàn hảo cho tranh biện (nơi tất cả các bên tham gia có liên quan đều có mọi bằng chứng họ cần để chỉ đưa ra phán đoán chỉ dựa trên cơ sở của lý lẽ đúng đắn, không có sự ép buộc hay những sự bóp méo nào khác can thiệp vào các kết luận đạt được) (2001c, tr. 97–99). Về sau, Habermas đi đến chỗ không hài lòng với sự phóng chiếu có vẻ không tưởng như vậy, và phần nào quay sang tập trung vào tiến trình tranh luận hợp lý tính thông qua đó các yêu sách chân lý bị thách thức và được biện minh (1999a, tr. 367–368). Do đó, khái niệm hoàn cảnh phát ngôn lý tưởng trở thành công cụ phê phán rõ ràng hơn, thông qua đó chúng ta có thể nhận diện những thiếu sót khả dĩ và thực sự cũng như những điều phi lý vốn là đặc trưng và làm méo mó cuộc tranh biện hiện thời. Habermas vì vậy có thể lập nên ‘lý thuyết diễn ngôn về chân lý’, theo đó ‘mệnh đề là đúng nếu nó đứng vững trước mọi nỗ lực bác bỏ nó dưới các điều kiện khắt khe của diễn ngôn hợp lý tính’ (1999a, tr. 367).

Ở giai đoạn đầu sự nghiệp, Habermas tiếp cận vấn đề chân lý hơi khác một chút. Mối quan tâm của ông trong Knowledge and Human Interests (Nhận thức và những lợi ích hay quan tâm của con người), và trong nhiều công trình khác ở thời gian này, là thách thức cách giải thích thực chứng/positivist về khoa học và sự thụ đắc tri thức. Theo nhà thực chứng, chỉ những yêu sách nhận thức có nền tảng tốt, và do đó có thể được xác nhận một cách chắc chắn hay thậm chí đầy ý nghĩa là đúng, tức là các khẳng định được biện minh bởi các loại nghiên cứu được sử dụng trong các ngành khoa học tự nhiên. Habermas quan tâm đến việc chỉ ra rằng thực tế có ba cách khác nhau để biện minh cho chân lý của các mệnh đề, tương ứng với các phương pháp của các ngành khoa học tự nhiên và các ngành khoa học văn hoá hay lịch sử, và tương ứng với lý thuyết phê phán. Tuy nhiên, chính ở đây, trong khi xem xét các phương pháp của các ngành khoa học tự nhiên, Habermas đi đến chỗ suy xét thuyết dụng hành, và điều này hình thành nên cơ sở cho nhiều điều mà chúng ta đã thấy ở trong các công trình hậu kỳ.

Triết gia Mỹ Charles Peirce cho rằng, một mặt, các ngành khoa học tự nhiên khám phá ra tri thức nhiều hơn và tốt hơn về thế giới tự nhiên bằng cách sử dụng các thí nghiệm thường nghiệm. Quan trọng là giả thuyết phải được kiểm nghiệm đối chứng với thực tại, và giả thuyết sai sẽ được tìm ra, bởi vì thí nghiệm không diễn ra như nhà khoa học dự đoán. Chỉ những lý thuyết khoa học tốt mới có hiệu quả thực tế, và như thế chân lý của một lý thuyết được kiểm tra ở mọi thời điểm khi nó được sử dụng để hướng dẫn công nghệ (và do công nghệ của chúng ta càng có thêm yêu cầu, nên các kiểm nghiệm cho các lý thuyết khoa học càng trở nên chặt chẽ, và các lý thuyết cũ từng được chấp nhận có thể bị phát hiện thiếu sót). Ở đây là lý thuyết tương ứng về chân lý. Kỳ cùng, lý thuyết khoa học là đúng nếu nó tương ứng với thực tại vốn tồn tại độc lập với các nhà khoa học và các lý thuyết của họ. Mặt khác, mối quan tâm của Peirce với sự thí nghiệm cũng là mối quan tâm đối với sự biện minh đối với chân lý của các lý thuyết. Ở đây ông lập luận rằng vấn đề không phải là sự thí nghiệm bởi các nhà khoa học riêng lẻ, mà đúng ra là công trình của cộng đồng khoa học. Bằng chứng thực nghiệm phải được tranh biện về tính tương quan của nó; các lý thuyết mới phải được nghiên cứu kỹ lưỡng về tính chặt chẽ và tính tương quan của chúng, và do vậy, một lần nữa chúng ta lại có lý thuyết đồng thuận về chân lý. Nhưng Peirce đã khéo tách sự đồng thuận hiện thời với sự đồng thuận lý tưởng khi kết thúc quá trình nghiên cứu khoa học. Như vậy, chính từ Peirce mà Habermas thu được nhiều điều cho khái niệm của ông về hoàn cảnh phát ngôn lý tưởng, mặc dù Peirce tưởng tượng cộng đồng lý tưởng của các nhà khoa học, nơi các nhà khoa học không bị ngăn cản do thiếu bằng chứng, những điều phi lý, những nỗi thù ghét cá nhân, hay các thứ bậc vốn ngăn cản các cá nhân tạo ra những đóng góp thích hợp, và vì thế kỳ cùng có thể khám phá bản chất của thực tại.

Tương tự, Habermas coi các ngành khoa học xã hội là những thứ dựa vào thảo luận và sự biện minh hợp lý tính, mặc dù, bởi vì đối tượng của nghiên cứu là con người khác, hay các hành động có ý nghĩa và các đồ tạo tác bởi con người, nên tranh luận cũng bao trùm cả họ. Khoa học văn hoá hay thông diễn/hermeneutics là quá trình đối thoại giữa cộng đồng của các nhà khoa học đang sống và các chủ thể đã chết hay vắng mặt vốn đang được nghiên cứu. Chân lý của mệnh đề trong các ngành khoa học văn hoá vì thế có thể được hiểu bằng sự đồng ý giả định giữa các nhà khoa học và chủ thể nghiên cứu về những điều có ý nói của những hành động nơi chủ thể nghiên cứu. Điều này được đẩy đi xa hơn trong trường hợp của lý thuyết phê phán.

Mô hình quan trọng ở đây là tâm phân học/psychoanalysis và đối thoại khởi đầu giữa người bệnh và nhà trị liệu. Trong khi nhà khoa học xã hội giả định rằng ý nghĩa của hành động của các tác nhân lịch sử hay xã hội có thể hiểu một cách dễ dàng đối với các tác nhân đó, thì nhà tâm phân học giả định rằng bệnh nhân không hiểu các hành động của bản thân mình. Xem xét các thí dụ sau. Một sinh viên người Serbia theo chủ nghĩa quốc gia, Gavilo Princip, đã bắn Quốc công (Archduke) nước Áo vào ngày 28.6.1914, ở Сарајево.iv Đây là hành động có ý nghĩa, và nhà sử học có thể suy ngẫm về những ý định của người sinh viên này, cũng như tôi có thể suy ngẫm về những ý định của bạn lúc trước đó khi không đưa tờ báo cho tôi. Một cách ngấm ngầm, nhà sử học hỏi ‘Tại sao bạn làm điều này?’ Nhưng, nhà sử học chắc chắn có cái nhìn rộng lớn hơn về hành động của người sinh viên và những hệ quả của nó, và có thể diễn giải hành động đó như là ‘điểm khởi đầu thế chiến thứ nhất’. Trong khi điều này không phải là ý định công khai của người sinh viên, thì anh ta vẫn có thể hiểu rằng đây thực ra là hệ quả của hành động của mình.

Vấn đề với tâm phân học thì khác. Người bệnh trình diện bản thân với, ta lấy ví dụ, chứng liệt. Người bệnh sẽ không nhận ra chứng liệt này như là hành động của bản thân mình (trong khi người sinh viên có thể nhận thức dễ dàng hành động của bản thân anh ta và hệ quả của nó, ngay cả ngoài ý muốn). Chứng liệt có vẻ bị giáng xuống cho người bệnh. Tuy nhiên, nhà tâm phân học tiếp cận chứng liệt này như là hành động vô thức do người bệnh gây nên, và như thế chứng liệt được xem như là phản ứng xác định và có ý nghĩa đối với một trải nghiệm sang chấn trước đó. Nhiệm vụ của sự phân tích vì vậy không đơn giản là tạo nên ý nghĩa cho chứng liệt, mà còn phục hồi cho người bệnh khả năng đánh giá ý nghĩa đó—nghĩa là nhận ra sự liên hệ giữa chứng liệt và chấn thương gốc, và do vậy, chấp nhận chứng liệt như là phản ứng tích cực của bản thân người bệnh với chấn thương đó. Sự biện minh cho chân lý của mệnh đề trong tâm phân học, và do đó trong lý thuyết phê phán nói chung, không chỉ nằm trong đối thoại và sự biện minh hợp lý tính mà trong tác động mà đối thoại có được lên các các hành động của cá nhân hay những người có liên quan. Chẩn đoán của nhà trị liệu là đúng nếu người bệnh chấp nhận nó, và ký ức hay sự tự trị của họ được khôi phục. Quan niệm này về sự biện minh đối với yêu sách chân lý càng có vấn đề hơn (mặc dù tinh tế và thú vị) bởi thực tế, ít nhất theo giải thích của Freud, người bệnh có thể chống lại sự diễn giải đúng về các triệu chứng của họ, khiến cho sự thất bại trong việc khôi phục sự tự trị không nhất thiết là chỉ dấu cho sự sai lầm của chẩn đoán, trong khi thất bại của thí nghiệm khoa học là chỉ dấu của sự sai lầm của giả thuyết được kiểm nghiệm.

Trong khi Habermas sau đó từ bỏ chương trình nghiên cứu về Knowledge and Human Interests (Nhận thức và những lợi ích hay quan tâm của con người), một phần vì ông cảm thấy rằng nó làm cho câu hỏi về sự biện minh đối với yêu sách chân lý bị nhầm lẫn với vấn đề về phương thức trong đó các ngành khoa học khác nhau quan niệm, và do đó cấu tạo các đối tượng được nghiên cứu, nhưng nó vẫn là nguồn ý tưởng phong phú về bản chất của chân lý và sự biện minh cho nó.

Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Truth

Lẽ thật.

Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

đế

truth

chân thực

truth, reality

đế

truth, dogma, axiom

chơn lí

the truth

thật đế

the truth, the reality

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

truth

[VI] Chân lý

[DE] Wahrheit

[EN] truth

truth,truthfulness,rightness

[VI] Chân lý; Chân thực; Chân xác

[DE] Wahrheit; Wahrhaftigkeit; Richtigkeit

[EN] truth; truthfulness; rightness

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

truth

Chân lý, chân thực tính, xác thực, chân tướng.< BR> absolute logical ~ Chân lý tuyệt đối lý luận tính [chủ thể, đối tượng, và hành động nhận thức về Thượng Đế đều nhất trí, không thể sai lạc, không thể bị lừa dối].< BR> logical ~ Lý luận tính chân lý, chân lý

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Wahrheit /f/M_TÍNH/

[EN] truth

[VI] chân lý

Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

truth

độ chính xác; độ đổng trục; độ song song; sự không đảo

Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

truth

độ chinh xác; dộ đóng trục; dộ song song; sự không đảo