TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

theodizee

Thần Luận Học

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

biện thần luận

 
Từ điển triết học Kant

thuyết biện thần

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

theodizee

theodicy

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Từ điển triết học Kant

Đức

theodizee

Theodizee

 
Metzler Lexikon Philosophie
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Theodizee /die; -, ...een (Philos.)/

thuyết biện thần;

Từ điển triết học Kant

Biện thần luận [Đức: Theodizee; Anh: theodicy]

Xem thêm: Đức tin, Thượng đế, Lịch sử, Thiên hựu, Thần học,

Trong BSL (1791), Kant quay trở lại vấn đề biện thần luận, là vấn đề làm ông bận tâm suốt từ giữa cho đến cuối những năm 1750. Trong giai đoạn sớm hon, ông đã đề cập biện thần luận của Leibniz hay “sự bảo vệ cho sự nghiệp tốt lành của Thượng đê”, tóm lược trong mệnh đề rằng “thế giới này là tốt nhất trong tất cả những thế giới khả hữu”. Mặc dù trong Một nỗ lực phản tư vẽ thuyết lạc quan (1759), về tổng thể, Kant bảo vệ sự nghiệp tốt lành của Thượng đế, nhưng ông có những hoài nghi trên bình diện phưong pháp luận về năng lực của con người trong việc nhận ra những con đường của Đấng Toàn năng (sđd., tr. 35, tr. 76). Những hoài nghi này được phát biểu lại trong BSL trên Cổ sở của triết học phê phán giới hạn sự nhận thức trong những ranh giới của kinh nghiệm khả hữu.

Khi định nghĩa biện thần luận như là “những sự bảo vệ cho sự hiền minh tối cao của Đấng Sáng tạo chống lại những than phiền của lý tính khi chỉ ra sự hiện hữu của những sự vật trong thế giới mâu thuẫn lại với cứu cánh hiền minh ấy” (BSL tr. 283), Kant đưa ra ba lĩnh vực than phiền: (a) sự thiêng liêng của Đấng Sáng tạo mâu thuẫn với cái ác luân lý trong thế giới,

(b) lòng tốt của Đấng Sáng tạo mâu thuẫn với những bất hạnh và đau khổ,

(c) công lý của Đấng Sáng tạo mâu thuẫn với sự miễn tội (BSL tr. 285). Ông cho rằng trong các trường hợp ấy, “lý tính đều hoàn toàn bất lực khi nó tiến hành xác định mối quan hệ giữa thế giới này như ta biết qua kinh nghiệm với sự hiển minh tối cao” (BSL tr. 290). Hoàn toàn phù hợp với những kết quả của triết học phê phán, Kant mô tả việc thực hiện “những giới hạn cần thiết cho các phản tư của ta” như là một “sự khôn ngoan phủ định” bằng cách chỉ ra sự thất bại của một biện thần luận tư biện, phát quang con đường cho một biện thần luận thực hành. Qua lý giải về câu chuyện của Job [xem: Sách Gióp. Kinh thánh, Cựu ước: người thánh thiện tên là Job/Gióp bị Thượng đế đến thử thách nhưng vẫn giữ lòng tin vào Thượng đế], Kant đi đến kết luận rằng “biện thần luận không phải là một nhiệm vụ của khoa học mà là một vấn đề của đức tin” (BST tr. 293).

Huỳnh Trọng Khánh dịch

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Theodizee

[EN] theodicy

[DE] Theodizee

[VI] Thần Luận Học

[VI] lý luận về thiện tính của Thượng Đế đối với thực tế tội lỗi (vd; Leibniz; Theodicy). Khác với thần học (theology): nghiên cứu vê tôn giáo và Thượng Đê'

Metzler Lexikon Philosophie

Theodizee

(griech. theos: Gott; dike: Recht), bezeichnet die von der Stoa und Gnosis versuchte, später v.a. von Leibniz (von dem auch dieser Begriff stammt) systematisch durchgeführte Rechtfertigung Gottes hinsichtlich des von ihm zugelassenen, aber nicht gewollten Übels in der Welt. Leibniz’ klassisches Werk zur Thematik der Th. sind die Essais de theodicée (1710), die die zentrale Frage behandeln, weshalb in der bestmöglichen Welt das Übel existiert. Die Th. enthält die Rechtfertigung Gottes als des gütigen Weltschöpfers angesichts des offenbaren innerweltlichen Übels und Bösen, deren Ursprung sie in der Freiheit der Geschöpfe sucht. Leibniz unterscheidet zwischen verschiedenen Arten des Übels und versucht zu zeigen, dass sie eigentlich keine Übel sind: Das metaphysische Übel besteht in der Kreatürlichkeit: Alles Geschaffene ist unvollkommen, denn sonst wäre es wie sein Schöpfer göttlich. Der Wunsch nach Aufhebung dieses Übels hieße, die Aufhebung der Schöpfung zu wünschen. Das physische Übel (z.B. Leid, Schmerz) rechtfertigt sich aus seiner Funktion: Es kann nützlich sein (z.B. Erhaltung des Individuums) oder als Strafe zur Besserung dienen. Das moralische Übel, d.h. die Sünde, lässt sich durch den Nachweis rechtfertigen, dass es Anlass des Guten werden kann; es ist die Folge der menschlichen Freiheit und der Grund für die christliche Erlösung der Menschheit. Entscheidend ist nach Leibniz, dass diese Übel nicht in erster Linie als Mängel zu deuten sind, sondern als Chance zur Vervollkommnung. Gott hat nicht das Böse an sich schaffen wollen, sondern allein die Menschen zerstören den Zustand des Paradieses. Die menschliche Freiheit besteht im vernunftgeleiteten, selbständigen Handeln des Individuums, weil nur so der göttliche Schöpfungsplan durchschaut und der Weg zur Vervollkommnung beschritten werden kann. Die Erkenntnis der Übel führt dazu, Gott nicht mehr wegen ihres Vorhandenseins anzuklagen, sondern verpflichtet vielmehr, die Welt zum Guten hin zu verändern.

RS

LIT:

  • H.- G. Janen: Gott-Freiheit-Leid. Darmstadt 1988
  • G.W. Leibniz: Die Theodicee von der Gte Gottes, der Freiheit des Menschen und dem Ursprung des bels (frz.-dt.). Darmstadt 1985
  • W. Oelmller (Hg.): Theodicee. Gott vor Gericht? Mnchen 1990
  • W. Sparn: Leiden, Erfahrung und Denken: Materialien zum Theodicee-Problem. Mnchen 1981.