Lý tính và Giác tính [Đức: Vernunft und Verstand; Anh: reason and understanding]
Vernunft (“(quan năng) lý tính”) có gốc từ động từ vernehmen (“nhận ra, nghe thấy, kiểm tra, thẩm vấn”), nhưng nó đã mất đi mối liên hệ với động từ gốc. Nó sinh ra tính từ vernünftig (“có lý tính, hợp lý”, theo cả hai nghĩa khách quan và chủ quan) và danh từ Vernünftigkeit (“(tính, sự) có lý, hợp lý”). Từ này được Eckhart, Luther v.v. sử dụng để dịch từ La-tinh ratio (với nghĩa “(quan năng) lý tính”, chứ không phải “CO SỞ”). Vernunft được phân biệt với từ tưong đưong gốc Pháp của nó là Räsonnement (lý sự, cãi cọ) và động từ räsonieren (lý sự, cãi cọ), những từ thường mang nghĩa xấu, đặc biệt là ở Hegel: “luận cứ mang tính ngụy biện, hình thức”. Ở Hegel, Vernunft cũng được phân biệt với các từ phái sinh của từ tưong đưong gốc La-tinh của nó là ratio: Rationalismus, rational và rationell. Những từ này thường được gắn với thuyết duy lý thời Khai minh, và do đó có nhiều điểm chung với Verstand hon là Vernunft.
Verstand ((quan năng) giác tính, trí năng) vẫn giữ được mối liên hệ của nó với động từ gốc verstehen (hiểu, V.V.), từ này lại có gốc từ động từ stehen (“đứng”/Anh: “to stand”) và do đó bị Hegel gắn với tính cố định, cứng nhắc, hon là với tính linh hoạt, trôi chảy. Nó sinh ra tính từ verständig (“biết, (của) giác tính”), ví dụ như “verständiges Denken - tư duy giác tính” tưong phản với “vernünftiges Denken - tư duy lý tính”. Nó cũng đi vào từ Menschenverstand (nghĩa đen là “lý trí con người”, do đó nghĩa là “lưong thức” / Anh: “common sense”), thường được coi là gemeiner Verstand (lý trí thông thường, bình thường) hoặc gesunder Verstand (lý trí lành mạnh): Hegel luôn luôn, nhất là trong cuốn TSPP (Tập san Phê phán Triết học), coi common sense là cái thiên kiến dốt nát và thiển cận.
Verstand được dùng cho từ La-tinh intellectus. Nhưng ở Hegel thì các từ phái sinh của intellectus (khác với Verstand), như Intellektualitat (“tính trí tuệ”), Intellektualismus (thuyết duy trí), Intellektualwelt (“thế giới trí tuệ”) và intelligibel (“khả niệm”) thường được liên hệ với thế giới khả niệm của Plato, thuyết Plato-mới và Leibniz, tưong phản với thế giới hiện tượng. Ngoại lệ là Intelligenz, quy chiếu tới TINH THẦN trí tuệ [của con người cá nhân] nói chung, bao gồm, ví dụ, KÝ ức và sự TƯỞNG TƯỢNG, nhưng thường loại trừ Ý CHÍ.
Theo truyền thống, các triết gia công nhận hai loại quan năng trí tuệ. Ở Plato, dianoia (“lý tính suy lý”) nằm giữa tri giác và nous (“tinh thần”, “trí tuệ”) hoặc noẽsis (“tư duy, hoạt động của nous”): dianoia làm việc với toán học, còn nous có tính trực quan hon thì làm việc với triết học. Đối với những người kế tục Plato, nous thường là quan năng cao hon và tưong phản với dianoia, logismos (“tính toán”, “lý luận”, như ở Plotinus chẳng hạn), hay tưong phản với pathẽtikos nous (nous bị động (tưong phản với nous chủ động), trong Aristoteles). Quan năng cao hon này thường được gán cho Thượng Đế hay các vị thần linh, và là tia sáng thần linh trong con người, trong khi quan năng thấp hon được dành cho loài người, và đôi khi được chia sẻ cho những động vật khác. Nous đưa chúng ta tiếp xúc với trật tự khả niệm, nous vũ trụ hay thế giới khả niệm (noẽtos). Trái với quan năng thấp hon, nous thường phản tư không chỉ về các quan năng thấp hon và các đối tượng của chúng, mà còn về bản thân mình, thành thử nó là “tư duy về/của tư duy”, và nó đồng nhất bản thân với đối tượng của chính nó (Aristoteles, Plotinus).
Sự phân biệt này đi vào tư duy thời trung cổ, chẳng hạn, qua những người như Boethius, người đã phân biệt, intellectus hoặc intelligentia mang tính trực quan, là cao hon so với ratio hay ratiocination mang tính suy lý. Trong tư duy thời trung cổ thì intellectus, hay mens, là quan năng cao hon, còn ratio là quan năng thấp hon. Do đó khi sự phân biệt này được Eckhart và các nhà huyền học khác dịch sang tiếng Đức thì Verstand (intellectus) là quan năng cao hơn, còn Vernunft (ratio) là quan năng thấp hơn: Vernunft khái niệm hóa chất liệu cảm tính, trong khi Verstand mang lại tri thức phi cảm tính về Thượng Đế. Nhưng vị trí này của chúng đã bị đảo lộn bởi các nhà tư tưởng thời Khai minh, như nơi Wollf chẳng hạn, người đã không dành chỗ nào cho tri thức siêu cảm tính, mang tính trực quan của Verstand cả. Verstand tuy vẫn còn mang tính trực quan nhiều hơn Vernunft, nhưng giờ đây chỉ còn gắn với các KHÁI NIỆM và sự áp dụng chúng vào các chất liệu cảm tính: nó là “quan năng hình dung một cách rõ ràng về cái khả thể’. Vernunft vẫn giữ được mối liên hệ của nó với sự SUY LUẬN và lập luận: nó là “quan năng nhìn thấu vào bên trong mối liên kết giữa các chân lý”.
Kant tiếp thu sự phân biệt này: Verstand là quan năng của khái niệm và PHÁN ĐOÁN (mặc dù chúng thường được quy cho Urteilskraft - (năng lực) “phán đoán”), còn Vernunft là quan năng suy luận. Nhưng Vernunft còn có vai trò cao hơn nữa: nó là quan năng của các Ý NIỆM và là nguồn gốc của các khái niệm SIÊU HÌNH HỌC; nó phản tư về tri thức mà giác tính thu nhận được và nỗ lực biến tri thức đó thành một cái TOÀN BỘ hoàn chỉnh, một nỗ lực đưa tri thức vượt qua những GIỚI HẠN của KINH NGHIỆM do lý tính áp đặt lên giác tính.
Goethe cũng góp phần định hình nên sự phân biệt này: Verstand giải quyết các vấn đề nhất định, quy mô nhỏ, trong khi Vernunft bao quát và hòa giải những cái ĐỐI LẬP. Trái với các nhà tư tưởng thời cổ đại và trung đại, những người thường gắn quan năng cao hơn (intellectus v.v.) với TỒN TẠI hay cái đang là, còn quan năng thấp hơn (ratio v.v.) với sự TRỞ THÀNH (das Werden/Anh: “becoming”), Goethe quy Vernunft cho “cái sẽ là” (das Werdende: “cái trở thành”), còn Verstand với “cái đang là” (das Gewordene: “cái đã trở thành”): lý tính quan tâm tới sự phát triển, còn giác tính liên quan tới việc giữ cho mọi sự đúng như chúng đang là, vì những mục đích thực tiễn. Ở Jacobi, Vernunft trở lại là một “cảm thức về cái siêu cảm tính”: thoạt tiên ông đối lập cả Vernunft lẫn Verstand với các quan năng cao hơn của NIỀM TIN và CẢM XÚC; nhưng sau này Vernunft tương đương với niềm tin, và được cho là mang lại một cái nhìn TRựC TIẾP và hoàn chỉnh về CHÂN LÝ, trái với Verstand mang tính suy luận. Nhưng quan niệm của Schiller gần gũi với Hegel hơn: BẢN TÍNH Tự NHIÊN (GIÁC QUAN) thì hợp nhất tất cả, giác tính phân ly tất cả, nhưng lý tính lại tái hợp nhất những gì đã bị phân ly (GDCN, XIX).
Quan niệm của Hegel (và cả Schelling) về Verstand và Vernunft hàm chứa các yếu tố của tất cả các quan điểm nói trên. Bản chất của Verstand, nói như Schelling, là sáng sủa mà thiếu chiều sâu. Nó cố định lại, và cô lập các khái niệm với nhau, ví dụ như giữa VÔ HẠN và HỮU HẠN. Nó đưa ra các phân tích và luận cứ rành mạch bằng con đường suy diễn. Do đó, nó được gắn với các khái niệm theo nghĩa truyền thống của chúng, chứ không phải với khái niệm theo nghĩa của Hegel, là cái hòa nhập vào các khái niệm khác, để rồi sinh ra lời thuyết minh về chính nó trong từng trường hợp cụ thể. Nhưng nó là giai đoạn đầu tiên, không thể thiếu, của Logic học và khoa học nói chung: ta không thể, khác với Jacobi, và đôi khi cả Schelling vẫn tin, tiến thẳng tới các chân lý của lý tính mà không có sự hiểu biết TRỪU TƯỢNG ban đầu về đối tượng (BKTI, §80).
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn của Vernunft phủ định hay BIỆN CHỨNG: giai đoạn này phơi bày ra các MÂU THUÂN ẩn chứa trong những sự trừu tượng của giác tính, và cái khuynh hướng của các mặt đối lập, vốn được xác định một cách hết sức rành mạch, giờ đây lại đổi chiều và biến hóa lẫn vào nhau (BKT. I, §81). Cuối cùng, lý tính TƯ BIỆN, hay khẳng định, sản sinh ra một kết quả khẳng định từ sự sụp đổ của những sự trừu tượng của giác tính: chẳng hạn, biện chứng của tồn tại và HƯ VÔ kết thúc trong sự ổn định tương đối của TỒN TẠI XÁC ĐỊNH hay NHẤT ĐỊNH.
Hegel hình dung giác tính, và nhất là lý tính, không phải như những thao tác mà ta, kẻ quan sát từ bên ngoài, tiến hành trên các khái niệm, mà như những thao tác bên trong các khái niệm, hay bên trong bản thân các ĐỐI TƯỢNG. Tương tự, ông coi giác tính, hay das Verständige [cái giác tính], và lý tính, hay das Vernünftige [cái lý tính], như những đặc tính cố hữu của các thực thể, chứ không đơn thuần là đặc tính của các khái niệm do ta tạo nên về chúng. Nhưng giác tính và lý tính can dự vào mọi sự vật theo hai cách khác nhau:
(1) Trong sự PHÁT TRIỂN trong thời gian, một thực thể hiện hữu (ví dụ như Đế quốc La Mã) là sản phẩm của giác tính, sự sụp đổ của nó (thường là kết quả của sự phân ly hay cô lập một cách mạnh mẽ giữa các công dân và các định chế của nó - một tính chất của giác tính) là công việc của lý tính PHỦ ĐỊNH, và sự thiết lập một trật tự mới (chẳng hạn như châu Âu thời trung cổ) trên cơ sở của trật tự cũ là công việc của lý tính tư biện. Trật tự mới này, khi phát triển tới mức độ chín muồi, thì tự nó trở thành một giai đoạn của giác tính, và là khởi đầu của một quá trình tan rã và phục hồi mới.
(2) Trong các trình tự phi thời gian, một thực thể hiện hữu (ví dụ như các nhân thân với các quyền sở hữu trừu tượng) bị (hoặc có vẻ bị) đồi bại từ bên trong (lý tính phủ định), cho tới khi nó được thâu gồm hay vượt bỏ trong một cái toàn bộ bao trùm và cao hơn: đó là ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC hay NHÀ NƯỚC (lý tính khẳng định).
Trong tự nhiên, những sự phát triển trong thời gian và các trình tự phi thời gian không trùng khớp với nhau, vì các sự kiện tự nhiên (không tính những sự kiện lặt vặt kiểu như một hạt giống lớn lên thành một cái cây) thường mang tính lặp lại và tuần hoàn: các cấp độ tiến lên của Tự NHIÊN không nối tiếp nhau trong THỜI GIAN. Trong địa hạt của TINH THẨN, chúng thường trùng khớp với nhau, vì tinh thần có một LỊCH sử (có tính) phát triển; nhưng chúng cũng lại rất thường khi không trùng khớp, vì chưa bao giờ có, ví dụ, các nhân thân bên ngoài Nhà nước.
Việc khách thể hóa lý tính và giác tính là rất quan trọng đối với thuyết DUY TÂM của Hegel: Các quá trình và các trình tự bản thể học của tự nhiên và tinh thần được hình dung như thể chúng được điều khiển bởi giác tính và lý tính nội tại; hai cái này, trong sự phát triển của mình, tương tự như giác tính và lý tính của tinh thần con người. Tính lý tính thực sự là ở trong sự phục tùng và phù hợp của lý tính của ta với lý tính có trong mọi vật: trong NHẬN THỨC, ta cần phải bám theo biện chứng nội tại của các khái niệm, đối tượng và quá trình. Trong đời sống thực tiễn, ta cần tuân theo tính lý tính vốn có của xã hội của ta, tức của HIỆN THựC. Hiển nhiên các tính chất phi lý tính của thế giới tự nhiên và thế giới xã hội trong thực tế là các yếu tố rất quan trọng trong tính lý tính bao trùm, chẳng hạn như một sai lầm không chỉ là một bước thiết yếu trên con đường tiến tới CHÂN LÝ, mà còn là một bộ phận cấu thành thiết yếu của chính bản thân chân lý.
Đoàn Tiểu Long dịch