TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

autonomie

quyền tự trị

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ché độ tự trị

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

quyền tỵ do

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

quyền tự chủ.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chế độ tự trị

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quyền tự do

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quyền tự chủ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tự do ý chí

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tự trị

 
Từ điển triết học Kant

Anh

autonomie

autonomy

 
Từ điển triết học Kant

Đức

autonomie

Autonomie

 
Metzler Lexikon Philosophie
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học Kant

Tự trị (sự) [Đức: Autonomie; Anh: autonomy]

Xem thêm: Mệnh lệnh nhất quyết, Yêu cầu, Tự do, Tự khởi (tính), Ý chí,

Ý hệ cận đại sơ kỳ về sự tự trị chính trị do Machiavelli khai triển trong Các luận văn (Discourses, 1531) đã kết hợp hai nghĩa của sự tự trị: thứ nhất là thoát khỏi sự lệ thuộc, thứ hai là năng lực tự ban bố luật lệ. Các phương diện chính trị của sự tự trị được phát triển trong bối cảnh của các Nhà nước-đô thị cận đại thời kỳ đầu đã được Luther bổ sung thêm vào cho đời sống tinh thần trong công trình của ông: Sự tự do của một Kitô hữu (1520). Đối với ông, sự tự trị như là sự tự do thoát khỏi tình trạng lệ thuộc được dịch thành “sự tự do - tâm linh, mới mẻ, và nội tại - của con người thoát khỏi thể xác và các xu hướng của nó cũng như sự tự do tuân theo luật của Thiên chúa” (Luther, 1961, tr. 53). Nghiên cứu của Kant về sự tự trị trong triết học thực hành của ông, đến lượt nó, đánh dấu một sự hoán vị triết học và sự phê phán về sự tự trị tôn giáo của Luther thành sự tự trị luân lý.

Triết học thực hành của Kant nối kết hai phương diện của sự tự trị trong một nghiên cứu về sự quy định của ý chí. Lập trường của ông nảy sinh từ sự phê phán một số viễn tượng thịnh hành thời bấy giờ. Những điều này bao gồm cả sự đối lập tiền-phê phán của ông đối với những nghiên cứu về hành vi luân lý do nghiên cứu của phái hoàn hảo luận duy lý thống trị trong trường phái Wolff và lý thuyết về cảm quan luân lý của trường phái Anh đương thời nêu ra, sự phê phán của ông đối với sự viện dẫn đến ý chí của Thượng đế trong thần học của giáo phái Pietist và cuối cùng là đối với quan niệm của Montaigne về tầm quan trọng của tập quán trong hoạt động con người. Sau này ông nhận ra rằng tất cả các cách tiếp cận này đều dựa trên một “nguyên tắc ngoại trị” và tìm cách phát triển một thứ triết học luân lý dựa trên một “nguyên tắc tự trị” về việc tự ban bố quy luật.

Sự đối lập giữa các nguyên tắc ngoại trị và tự trị tồn tại xuyên suốt trong triết học luân lý của Kant. Trong cuốn CSSĐ, một ý chí tự trị tự mình mang lại luật cho mình, và được phân biệt với ý chí ngoại trị mà luật của nó do đối tượng mang lại “vì mối quan hệ của nó với ý chí” (CSSĐ tr. 411, tr. 45). Ở trường hợp sau, các châm ngôn của ý chí tùy thuộc vào các nguyên tắc ngoại trị, mà Kant nhận thấy trong những nghiên cứu đương thời về hành vi luân lý nói trên. Cái trước “được rút ra từ nguyên tắc về hạnh phúc, và được dựa trên xúc cảm tự nhiên hoặc trên xúc cảm luân lý” trong khi cái sau “được rút ra từ nguyên tắc về sự hoàn hảo, và dựa trên khái niệm lý tính về sự hoàn hảo như là một kết quả khả hữu của ý chí chúng ta hoặc dựa trên khái niệm về một sự hoàn hảo độc lập (ý chí của Thượng đế) như là một nguyên nhân quyết định của ý chí chúng ta” (CSSĐ tr. 442, tr. 46). Các nguyên tắc ngoại trị chỉ mang lại những mệnh lệnh giả thiết - “Tôi phải làm điều đó vì tôi muốn có cái gì khác” - chứ không phải là những mệnh lệnh nhất quyết của nguyên tắc tự trị thoát ly khỏi mọi đối tượng của ý chí.

Nguyên tắc tự trị của mệnh lệnh nhất quyết không yêu cầu điều gì khác hơn là sự tự trị của chính nó. Nguyên tắc của sự tự trị phát biểu rằng: “Luôn lựa chọn theo phương cách sao cho trong cùng một ý muốn, các châm ngôn của sự lựa chọn đồng thời là một quy luật phổ quát” (CSSĐ tr. 440, tr. 44). Một nguyên tắc như thế chỉ có thể có được “dựa trên sự tiền-giả định về sự tự do của ý chí” (CSSĐ tr. 461, tr. 60), là cái xác lập “sự tự trị của ý chí như là điều kiện hình thức duy nhất quy định ý chí” (CSSĐ tr. 461, tr. 60). Điều này có nghĩa rằng ý chí phải muốn sự tự trị của chính mình, và vì thế, sự tự do của nó ở trong việc là một quy luật cho chính mình. Sự tự do này là “khả niệm”, nghĩa là “không phụ thuộc bất cứ sự quy định nào từ những nguyên tắc xa lạ” và có tính mô thức/phổ quát bởi lẽ nó không ở trong bất kỳ mối quan hệ nào với một đối tượng.

Việc Kant thuần túy hóa ý chí khỏi sự ảnh hưởng của bất cứ nguyên tắc ngoại trị hay đối tượng nào đã bị phê phán, kể từ Hegel trở đi, đáng kể nhất là bởi Nietzsche (1887) và Scheier (1973). Một sự tự trị như vậy ít nhất bị xem là trống rỗng, duy hình thức và không thích đáng, hoặc tệ hon nữa, bị xem là chuyên chế độc đoán. Nó được xem là đã buộc cảm năng phải phục tùng lý tính, và trong mắt Hegel, bị xem là bạo hành đối với cả cảm năng lẫn lý tính (Hegel, 1807). Nghiên cứu của Kant về sự tự trị gần đây đã được O’Neill (1989) đánh giá lại và bảo vệ, vì theo ông, nó cung cấp một cơ sở phương pháp luận thỏa đáng cho sự lập luận lý thuyết lẫn sự lập luận thực hành.

Thánh Pháp dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Autonomie /die; -, -n/

(bildungsspr ) quyền tự trị; chế độ tự trị;

Autonomie /die; -, -n/

(Philos ) quyền tự do; quyền tự chủ; sự tự do ý chí (Willensfreiheit);

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Autonomie /f =, -míen/

1. quyền tự trị; 2. ché độ tự trị; 3. (triết) quyền tỵ do, quyền tự chủ.

Metzler Lexikon Philosophie

Autonomie

(1) Als politische Kategorie bedeutet A. die Selbständigkeit eines Staatengebildes, die sich in der Möglichkeit zeigt, über die eigenen Angelegenheiten unabhängig von einer anderen Macht bestimmen und eigene Gesetze erlassen zu können. (2) Als philosophische Kategorie verdankt sie der Kantischen Philosophie ihre Relevanz, die mit dem aufklärerischen Anspruch auftritt, der Mensch müsse sich seiner eigenen Vernunft bedienen, statt sich von fremden Autoritäten und von Tradition bestimmen zu lassen. Für die theoretische Vernunft bedeutet das, eigene Prinzipien der Erkenntnis zu erstellen und deren Reichweite und Grenzen zu bestimmen. Die Affizierung durch die Sinnenwelt, die einer Fremdbestimmung des Bewusstseins gleichkomme, wird zu einem Teilmoment der Verstandesleistung. Der Vernunft obliegt es, die Verbindung empirischer Vorstellungen der Erscheinung gemäß zu leisten. Von größerer philosophischer Wirkung war die Interpretation der A. (im Rahmen der Moralphilosophie) als Selbstbestimmung des Menschen. Dazu gelangt der Mensch nur, wenn er sich von den unmittelbaren Einflüssen sinnlicher Antriebe, Begierden, Leidenschaften und Interessen distanziert. Die A. des Willens ist für den Menschen dann gegeben, wenn er von einer derartigen Fremdbestimmung (Heteronomie) übergeht zu einer Form der Selbstbestimmung, in der sich der Wille ein eigenes Gesetz gibt. Ein solches Gesetz muss unabhängig von aller Beschaffenheit der Gegenstände des Willens formuliert werden, da sonst wieder ein Naturgesetz in Gestalt von Neigungen und Leidenschaften wirksam wird. Deshalb erscheint es Kant als zwingend, dass sich der Wille nur in Bezug auf die Form des Wollens in Gestalt eines allgemeinen Gesetzes selbst bestimmen könne. Als Prinzip der A. resultiert daraus der kategorische Imperativ, nicht anders zu wählen als so, dass die Maxime seiner Wahl zugleich als allgemeines Gesetz mitbegriffen sei (Grundlegung zur Metaphysik der Sitten). Die widerspruchsfreie Verallgemeinerbarkeit subjektiver Handlungsregeln wird so zum Maßstab dafür, dass der Mensch sich seines Willens autonom bedient. A. realisiert sich in Gestalt des vernünftigen Willens, d.h. in vernünftiger Selbstbestimmung. (3) Die Kantische Bestimmung erhält zahlreiche Umformulierungen. Im deutschen Idealismus machen vor allem Fichte und Schelling über Kant hinausweisende Vorschläge: Für Fichte ist die absolute Existenz und A. des Ich der erste und unbestimmte Grundsatz, in dem die allem Bewusstsein zugrunde liegende Tathandlung zum Ausdruck kommt. Sie bedeutet (a) eine ununterbrochene Gesetzgebung des vernünftigen Wesens an sich selbst; (b) absolute Unbestimmbarkeit durch irgendetwas außer dem Ich; (c) absolute Reflexion auf sich selbst. Alle Bestimmungen gründen in der A. der Vernunft. Schelling bezeichnet das innere Prinzip allen Vorstellens und Konstruierens als ursprüngliches Handeln des Geistes in Bezug auf sich selbst, wodurch die ursprüngliche A. zur Geltung kommt. (4) Adorno überträgt den Begriff der A. in den gesellschaftstheoretischen Bereich: Der Mensch bedarf zu seiner A. der Freiheit von ihn fremdbestimmenden gesellschaftlichen Kräften.

PP

LIT:

  • Th. W. Adorno: Negative Dialektik. Frankfurt 1966
  • R. Bittner: Moralisches Gebot oder Autonomie. Freiburg/Mnchen 1983
  • J. G. Fichte: Das System der Sittenlehre nach den Prinzipien der Wissenschaftslehre. Hamburg 1963
  • O. Hffe: Freiheit. In: Ders. (Hg.): Lexikon der Ethik. Mnchen 31986. S. 62 ff
  • I. Kant: Grundlegung zur Metaphysik der Sitten
  • A. Pieper: Einfhrung in die Ethik. Tbingen 21991. S. 138 ff
  • R. Pohlmann: Autonomie. In: HWPh
  • F. W. J. Schelling: System des transzendentalen Idealismus. Hamburg 1962.