TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

urteilskraft

lí trí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lí tính

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

phán đoán

 
Từ điển triết học Kant

khả năng nhân định

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

khả năng đánh giá

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

óc phán đoán

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

urteilskraft

judgement

 
Từ điển triết học Kant

Đức

urteilskraft

Urteilskraft

 
Metzler Lexikon Philosophie
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Urteilskraft /die (o. P1-)/

khả năng nhân định; khả năng đánh giá; óc phán đoán;

Từ điển triết học Kant

Phán đoán (năng lực, quan năng) [Đức: Urteilskraft (Beurteilungsvermögen); Anh: Judgement (power and faculty of)]

Xem thêm: Cảm năng học, Đẹp, Khái niệm, Phán đoán xác định [năng lực], Tự chế, Tưởng tượng, Trực quan, Vui sướng, Phán đoán phản tư [năng lực], Lý tính, Giác tính,

Quan năng phán đoán là một trong ba “quan năng cao cấp của nhận thức” nằm giữa giác tính và lý tính, và hình thành “một khâu trung gian giữa giác tính và lý tính” (PPNLPĐ, Lời tựa). Nhưng nó không chỉ làm trung gian cho giác tính và lý tính, mà còn chứa đựng cả hai quan năng ấy; chẳng hạn, trong PPLTTT, Kant mô tả giác tính như “một quan năng để phán đoán” (A 69/ B 94), và trong PPNLPĐ, [ông xem] “phê phán lý tính thuẫn túy” không gì khác hon là “phê phán quan năng của ta chuyên phán đoán dựa theo các nguyên tắc tiên nghiệm” (Lời tựa). Về căn bản, mỗi cuốn phê phán xử lý quan năng phán đoán trong sự áp dụng lý thuyết, áp dụng thực hành và áp dụng thẩm mỹ/mục đích luận của nó. Trong PPLTTT, quan năng phán đoán tổng hợp những khái niệm của giác tính với cái đa tạp của trực quan, và toàn bộ “Phân tích pháp các nguyên tắc” là dành cho một “học thuyết về năng lực phán đoán” để đưa ra một “bộ Chuẩn tắc chỉ dành cho năng lực phán đoán để hướng dẫn nó áp dụng các khái niệm của giác tính” [vào cho những hiện tượng] (A 132/ B 171). Rồi cuốn PPLTTH, đến lượt nó, được dành để phát triển một bộ Chuẩn tắc dành cho năng lực phán đoán luân lý bằng việc xét xem những châm ngôn có phù hợp với mệnh lệnh nhất quyết hay không. Sau cùng, cuốn PPNLPĐ nỗ lực giải đáp những câu hỏi nền tảng về quan năng phán đoán, như liệu nó có sở hữu những nguyên tắc tiên nghiệm hay không; liệu những nguyên tắc tiên nghiệm ấy có chức năng cấu tạo hay điều hành; và đặc tính của mối quan hệ giữa năng lực phán đoán với sự vui sướng và đau khổ. PPNLPĐ xử lý những vấn đề ấy bằng một sự phân tích về những đặc điểm riêng có của những phán đoán thẩm mỹ về sở thích.

Quan năng phán đoán có hai chức năng Cổ bản mà Kant xem như đồng nghĩa trong PPLTTT: “Năng lực phán đoán là quan năng thâu gồm sự vật vào dưới những quy luật [do giác tính đề ra], nghĩa là phân biệt sự vật nào là phục tùng vào quy luật nào, còn sự vật nào không” (A 132/ B 171). Hai phưong diện của năng lực phán đoán - thâu gồm và phân biệt - được nối kết trong PPLTTT. Phưong diện thứ nhất được bàn trong Chưong II của “Phân tích pháp các nguyên tắc”, tức phần khảo sát những phán đoán tổng hợp vốn “nằm ngay một cách tiên nghiệm tại nền tảng của mọi phưong cách nhận thức khác” hoặc sự thâu gồm vào dưới một quy tắc. Phưong diện thứ hai được xem xét trong Chưong I về “thuyết niệm thức”, tức phần thẩm định những điều kiện cảm tính của việc áp dụng những khái niệm thuần túy của giác tính, hoặc sự phân biệt những đối tượng khả hữu cho sự thâu gồm.

Trong triết học thực hành của mình, bằng sự tưong phản, Kant phân biệt hai chức năng của năng lực phán đoán với nhau. Chức năng phân biệt được mô tả như công việc của Beurteilungskraft [năng lực đánh giá], thực hiện chức năng trong lý tính thực hành hằng ngày bằng việc phân biệt giữa các hành động và những diễn trình của các hành động. Những hành vi này của sự phân biệt không áp dụng nguyên tắc về nghĩa vụ một cách trừu tượng trong hình thức phổ quát của nó, mà luôn luôn có sẵn nó trên thực tế và sử dụng nó như chuẩn mực của phán đoán (CSSĐ, tr. 403, tr. 15). Quan năng phán đoán thực thụ (Urteilskraft: Năng lực phán đoán) tạo ra những phán đoán thâu gồm dựa theo những nguyên tắc thuần lý đang hiện diện và được phát biểu một cách rõ ràng.

Trong PPNLPĐ, Kant cố gắng mang hai chức năng này của năng lực phán đoán lại với nhau bằng một “nguyên tắc tiên nghiệm chủ quan”.

Kiến trúc của cuốn phê phán thứ ba được xác định bằng sự tìm kiếm một nguyên tắc sẽ đi giữa nghiên cứu thiên về chức năng phân biệt một cách thái quá về năng lực phán đoán thẩm mỹ của những nhà lý thuyết Anh về sở thích với phiên bản thiên về chức năng thâu gồm một cách thái quá của trường phái Mỹ học Wolff. Kant thừa nhận rằng việc xác lập một nguyên tắc như vậy - vốn có thể không cầu viện đến những khái niệm - là “một công việc đi liền với những khó khăn rất lớn”, và ông hy vọng rằng sự tối tăm của giải pháp của ông sẽ được cải thiện bằng sự xác đáng trong “luận điểm” của ông “vê nguyên tắc ấy” (PPNLPĐ, Lời tựa). Luận điểm sau cùng về một nguyên tắc tiên nghiệm chủ quan của quan năng phán đoán đã đánh dấu một điểm khởi hành trong triết học phê phán, chứa đựng sensus communis [cảm quan chung], sự vui sướng trong sự thông giao liên chủ thể, và những sản phẩm sáng tạo của tài năng thiên bẩm [genius]. Ở đó, Kant đã phát triển một quan niệm về năng lực phán đoán phản tư, trong đó quy tắc của sự phán đoán được rút ra từ sự phản tư về những cái đặc thù, và quy tắc của tính sáng tạo độc đáo, ở đó quy tắc của sự phán đoán có thể bị bác bỏ hoặc bị biến đổi bằng sự ngoại lệ.

Trong những năm gần đây, các phưong diện khác nhau của “nguyên tắc tiên nghiệm chủ quan” của Kant về năng lực phán đoán đã là chủ đề của cuộc tranh cãi trong bối cảnh của thuyết Hậu-hiện đại [post-modernism]. Phần lớn cuộc tranh cãi bên trong và chống lại thuyết Hậu-hiện đại được tiến hành xoay quanh vấn đề tranh cãi về năng lực phán đoán, và mối quan hệ của nó với sự vui sướng, tính liên chủ thể, sự phân biệt và sự khác biệt. Điều này đã dẫn đến một sự xem xét lại nghiên cứu của Kant về năng lực phán đoán trong PPNLPĐ của những triết gia như Arendt (1989), Derrida (1978), Habermas (1985) và Lyotard (1983, 1991). Điều này không những đã làm mới lại việc lý giải văn bản của Kant, mà còn dẫn đến một sự xem xét lại vị trí của ông bên trong truyền thống triết học “hiện đại”.

Hoàng Phú Phương dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

urteilskraft /í =/

í = lí trí, lí tính;

Metzler Lexikon Philosophie

Urteilskraft

Lateinische Vorläufer des Begriffs finden sich u. a. in der scholastischen Tradition (vis aestimativa) sowie bei G. W. Leibniz (ars iudicandi). In der deutschen Form wird er von J. Chr. Gottsched in seinem Kompendium der Lehre Chr. Wolffs eingeführt, einerseits als Beschreibung des Aktes des iudicium, der gedanklichen Verbindung oder Trennung von Begriffen, andererseits in der Definition des Geschmacks als »Kraft der Seele, von einer klar empfundenen Vollkommenheit oder Unvollkommenheit zu urtheilen« (Erste Gründe I. § 929). Daran anknüpfend begründet A. G. Baumgarten den terminologischen Gebrauch des Ausdrucks »Beurtheilungskraft« (facultas diiudicandi) als Fähigkeit zur Wahrnehmung von Vollkommenheit und Unvollkommenheit (Metaphysica § 606). – Die philosophisch bedeutendste Prägung erfuhr der Begriff durch I. Kant, demzufolge U. die Verknüpfung der verschiedenen menschlichen Erkenntnisvermögen (Einbildungskraft, Verstand, Vernunft) gewährleistet und damit eine wesentliche Rolle im Erkenntnisprozess erlangt. U. überhaupt wird dabei gefasst als »das Vermögen, unter Regeln zu subsumieren« (KrV B172) bzw. »das Besondere als enthalten unter dem Allgemeinen zu denken« (KU B XXV). Sie ist ein ˲besonderes Talent˱ und kann als Entscheidungsinstanz über die Anwendung von Regeln nicht selbst gemäß bestimmter Regeln oder Vorschriften der allgemeinen Logik gelehrt, sondern nur von Fall zu Fall ˲geübt˱ werden. Ihre Tätigkeit ist mithin selbst logisch/begrifflich nicht demonstrierbar. Im speziellen unterscheidet Kant zwei Formen der U. (1) Bestimmende U. ist die Fähigkeit der Subsumption des in der Anschauung gegebenen Besonderen unter das Allgemeine, die Regeln des Verstandes. Sie ermöglicht es, etwas ˲unter Begriffe zu bringen˱, mithin einen Begriff durch eine gegebene empirische Vorstellung zu bestimmen. (2) Reflektierende U. wird demgegenüber das Vermögen genannt, exemplarisch für einen vorliegenden Fall die Regel zu finden bzw. »über eine gegebene Vorstellung, zum Behuf eines dadurch möglichen Begriffs, nach einem gewissen Prinzip zu reflektieren« (KU Erste Einl., V). Letztere ist zentrales Thema der Kritik der Urteilskraft, innerhalb derer Struktur und Geltungsanspruch ästhetischer und teleologischer Urteile untersucht werden. Aufgenommen und kritisch diskutiert wird der Begriff u. a. bei K. L. Reinhold und G. W. F. Hegel sowie im hermeneutischen Kontext bei H.-G. Gadamer.

AW

LIT:

  • A. G. Baumgarten: Metaphysica. 1739
  • J.Chr. Gottsched: Erste Grnde der gesammten Weltweisheit. 1732
  • I. Kant: KrV 2. Aufl. 1787
  • Ders.: KU. 1790.