Conditionnement
[VI] ĐIỀU KIỆN HÓA (nhiễm tập)
[FR] Conditionnement
[EN]
[VI] Cho một con chó nếm hay ngửi một miếng thịt, nó tiết ra nước bọt: đó là phản xạ bẩm sinh, vô điều kiện. Cùng một lúc, cho ngửi miếng thịt, rung một tiếng chuông, làm đi làm lại nhiều lần, về sau không cần cho miếng thịt, chỉ cần nghe tiếng chuông là chó tiết nước bọt. Tiếng chuông đã tạo ra một phản xạ có điều kiện. Kết hợp kích thích vô điều kiện và kích thích có điều kiện làm nhiều lần gọi là điều kiện hóa, từ đó có thể tạo ra những thói quen, những hành vi rập khuôn trong lĩnh vực hành động, ngôn ngữ cũng như phản ứng thực vật (nội tạng), như tập cho ngủ…và cũng có thể tạo ra ở thú vật như chó những rối loạn thần kinh (névrose) Trên đây là điều kiện hóa kiểu Pavlov, gọi là kiểu I. Sau Pavlov, Watson và đặc biệt là Skiner đã thực hiện điều kiện hóa kiểu II: sau một hành vi nhất định như ấn lên một đòn bẩy, một con thú sẽ hoặc tiếp nhận một miếng ăn, hoặc tránh bị điện giật, lặp đi lặp lại vài lần, về sau xác suất xuất hiện của hành vi trên sẽ tăng. Từ hai kiểu điều kiện hóa, rất nhiều thực nghiệm được thi hành nhằm lý giải các quá trình tập luyện và học tập, kể cả những quá trình vận dụng ngôn ngữ và nói chung các ký hiệu và tượng trưng: học thuyết phản xạ học (réflexologie) của trường phái Pavlov, học thuyết ứng xử (behaviourism) của Watson - Skinner. Điều kiện hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, có thể giúp làm liệu pháp, nhưng nhiều học giả không chấp nhận thuyết cho rằng điều kiện hóa đủ để lý giải mọi vấn đề để hình thành các đặc điểm tâm lý con người. X Tập luyện - Học tập- Ứng xủ (thuyết).