TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

teleologie

Mục đích luận

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thuyết mục đích.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thuyết mục đích

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

teleologie

teleology

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

Đức

teleologie

Teleologie

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Teleologie /[teleolo'gi:], die; - (Philos.)/

mục đích luận; thuyết mục đích;

Từ điển triết học Kant

Mục đích luận [Đức: Teleologie; Anh: teleology]

Xem thêm: Mục đích, Tính hợp mục đích, vương quốc của các mục đích, Kỹ thuật,

Một sự cắt nghĩa theo mục đích luận là một sự cắt nghĩa dựa vào các mục đích chung cuộc. Các nguồn gốc của nó nằm trong sự phân biệt của Aristoteles giữa nguyên nhân chất liệu/ vật chất, nguyên nhân hình thức/ mô thức, nguyên nhân tác động/ vận động và nguyên nhân mục đích, vốn được ông áp dụng để cắt nghĩa sự thay đổi vật lý. Nguyên nhân mục đích hay “vì lợi ích của nó” mà một sự vật được làm ra” (1941, 195a, 33) được áp dụng cho cả sự thay đổi vật lý lẫn hành động của con người. Những cắt nghĩa theo mục đích luận được áp dụng cho cả tự nhiên lẫn hành động, cho đến đầu thời hiện đại khi Galileo bác bỏ mọi nguyên nhân của Aristoteles, và Descartes loại bỏ các nguyên nhân mục đích ra khỏi sự giải thích về sự thay đổi vật lý để ủng hộ cho các nguyên nhân tác động/ vận động. Tuy nhiên, Kant đã lập luận ủng hộ một vai trò hạn chế cho các nguyên tắc mục đích luận để bổ sung cho những sự giải thích cơ giới. Trong Phần II của cuốn PPNLPĐ, ông trình bày một “Phêphán Năng lực Phán đoán Mục đích luận” gồm một phân tích pháp, một biện chứng pháp và một học thuyết về phương pháp, xác lập những ranh giới cho sự sử dụng chính đáng năng lực phán đoán mục đích luận (xem thêm vê sự Sứ dụng các Nguyên tắc Mục đích luận trong Triết học, 1788). Các phán đoán mục đích luận có thể bổ sung cho phán đoán xác định như một “nguyên tắc điêu hành” cho phán đoán phản tư, và vì thế mở rộng “khoa học tự nhiên của ta dựa theo một nguyên tắc khác, đó là nguyên tắc về những nguyên nhân mục đích mà không gây tổn hại gì đến nguyên tắc về tính nhân quả Cổ giới” (PPNLPĐ, § 67). Các phán đoán mục đích luận không thể được sử dụng đon thuần để gán các mục đích của con người cho các đối tượng của tự nhiên, tức chỉ đon thuần là một hình thức của “sự suy diễn tùy tiện để đẩy bừa khái niệm “mục đích” vào trong bản tính tự nhiên của sự vật”, nhưng có thể đóng vai trò như một phưong tiện để đạt đến sự hoàn tất có hệ thống của nhận thức của chúng ta. Hay nói khác đi, các nguyên tắc mục đích luận không có ý nghĩa giải thích nào hết (PPNLPĐ, § 61).

Mục đích luận xứng đáng với tên gọi của nó trong triết học thực hành của Kant, dù nó không còn được xem như mục đích luận đúng nghĩa nữa. Với Kant, cái làm cho các phán đoán thực hành có tính mục đích luận là việc chúng quy chiếu đến một mục đích. Co sở của sự tự-quy định của ý chí là một “mục đích” (CSSĐ, tr. 427, tr. 35) và vì thế về mặt kỹ thuật thì mọi phán đoán luân lý, do bởi chúng bị quy định bởi một mục đích, đều có tính mục đích luận. Tuy nhiên, chúng không có tính mục đích luận theo nghĩa là gán ý nghĩa cho một hành động đã hoàn tất, mà chỉ trong chừng mực những mục đích ấy đóng vai trò như những xu hướng hoặc những động Cổ cho sự quy định của ý chí. Mặc dù hai hình thức của phán đoán mục đích luận có vẻ được đối lập thành mục đích luận tự nhiên và mục đích luận luân lý (theo cách nói của PPNLPĐ Phần II), Kant đã cố gắng hợp nhất chúng thành một “cứu cánh tối hậu” của sự tự do của con người đang đào luyện chính mình trong việc đề ra các quy luật tự nhiên và quy luật luân lý. Trên phưong diện này, mục đích luận có thể được xem như đóng một vai trò cốt yếu trong triết học phê phán, không những trong việc mở rộng lĩnh vực của nhận thức về tự nhiên như một nguyên tắc điều hành, và trong hành động như nguồn suối cho những phán đoán luân lý có tính hướng đích, mà trên hết là trong việc hội nhập vưong quốc của tính tất yếu tự nhiên với vưong quốc của sự tự do thực hành.

Hoàng Phú Phương dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Teleologie /í = (triết)/

í = mục đích luận, thuyết mục đích.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Teleologie

[VI] Mục đích luận

[DE] Teleologie

[EN] teleology

Metzler Lexikon Philosophie

Teleologie

(griech. telos: Ziel, Zweck). Unter T. wird die Annahme der Zielgerichtetheit eines Prozesses oder einer Handlung verstanden. Als deskriptives Interpretationsschema dient es zur Beschreibung ganz unterschiedlicher Phänomene. In Bezug auf Naturphänomene unterstellt eine teleologische Betrachtungsweise eine innere Zweckgerichtetheit eines Prozesses. Die aristotelische Unterscheidung zwischen causa materialis und causa finalis gibt die Grundlage dafür ab, um bestimmte Vorgänge in der Welt nicht aus ihren Wirkursachen, sondern von den Zielzuständen (sog. Endursachen) her zu erklären. Solche Deutungen unterscheiden sich hinsichtlich der Annahmen, wodurch der Zweck oder das Ziel begründet ist. Eine solche Zielorientierung allen Werdens kann durch eine Seinsordnung begründet sein, wodurch in jedem Ding angelegt ist, sich auf seinen immanenten Zweck hin zu entfalten und in ihm zur Vollendung zu gelangen. Eine solche Vorstellung findet sich im Anschluss an Aristoteles: Jedes Wesen strebt danach, des Guten nach Maßgabe seiner Kapazität teilhaftig zu werden. Diese Zielorientiertheit kann auch in einer göttlichen Zwecksetzung begründet sein, wie es für die christliche Philosophie im Anschluss an Augustinus maßgebend war. Eine teleologische Beschreibung der Naturphänomene lieferten die Vertreter des Vitalismus, für die chemische und physikalische Gesetzmäßigkeiten keine hinreichenden Antworten boten, um die typischen Lebensvorgänge wie Reproduktion und Selbstregulation zu erklären. Erst die Annahme von zielbewusst handelnden, unsichtbaren Entelechien boten ihrer Meinung nach einen hinreichenden Erklärungsgrund. Im heutigen wissenschaftlichen Denken kommt die T. in Theorien von selbstgesteuerten Automaten zur Geltung. Das kybernetische Modell des Regelkreises ermöglicht eine Rekonstruktion von Prozessen ohne die Annahme eines immanenten Zielstrebens. – Bereits Kant kritisierte die Annahme einer objektiven Zweckbestimmung der Natur. In Bezug auf die Objekterkenntnis kann T. nicht sinnvoll behauptet werden. Sie ist bestenfalls als regulative Idee nützlich, d.h. als Vernunftleitfaden für die Zusammenfassung der Verstandeserkenntnisse zur systematischen Einheit (KdU § 74).

Im Hinblick auf die Analyse menschlichen Handelns ist der Stellenwert teleologischer Erklärung umstritten. Der von Hempel, Oppenheim, Popper und Stegmüller vertretenen Auffassung, dass nur kausale Erklärungen wissenschaftlichen Status haben, stellt v. Wright sein Modell intentionaler bzw. teleogischer Erklärung gegenüber (Erklärung). Die intentionale oder teleologische Handlung basiert auf zwei Annahmen: (1) einem Wissen, dass mit einem bestimmten Verhalten (d.i. einer Tätigkeit) ein Ergebnis erreicht werden kann; (2) der Absicht einer Person, mittels dieser Tätigkeit das intendierte Ergebnis zu erreichen. V. Wright erläutert die intentionale Handlung durch die Form des praktischen Schlusses: 1. Prämisse: Die Person A beabsichtigt, ein Ereignis p herbeizuführen; 2. Prämisse: A glaubt, dass sie p nur herbeiführen kann, wenn sie eine Tätigkeit a ausführt; 3. Konklusion: Folglich macht sich A daran, a zu tun. Anhand dieses praktischen Schlusses demonstriert er, dass die H. keine kausale Erklärung sein kann, da die Konklusion aus den Prämissen logisch gefolgert werden kann. Für eine kausale Ursache (i. S. Humes) ist es dagegen charakteristisch, dass Ursache und Wirkung logisch voneinander unabhängig sind und nur zu einer Aussage über eine empirische Notwendigkeit führt. Der praktische Schluss zeigt auf, dass Intention und Handlung miteinander logisch verknüpft sind (was nicht heißt, dass die Prämissen notwendig die Handlung zur Folge haben müssen). Wenn der praktische Schluss als Konklusion eine wahre Behauptung darüber ergibt, was die betreffende intentionale Handlung ist, dann stellen die Prämissen dieses Schlusses auch eine teleologische Erklärung dieser Handlung dar. Die Prämissen des praktischen Schlusses implizieren eine Aussage über einen intentionalen Akt und erklären somit diesen Akt teleologisch, weil die Prämissen die Bedingungen niederlegen, mit Hilfe derer das betreffende Verhalten zu verstehen ist. – Im Kontext der Ethik wird jene Position als teleologisch bezeichnet, die die Richtigkeit des Handelns danach beurteilt, ob durch das Handeln ein Zustand herbeigeführt wird, der unabhängig von diesem konkreten Handeln und ohne Rekurs auf moralische Pflichten als erstrebenswert gilt und gerechtfertigt ist. Der Utilitarismus repräsentiert eine teleologische Ethik. Funktionalanalyse.

PP

LIT:

  • N. Hartmann: Teleologisches Denken. Berlin 1966
  • R. Lw: Die Philosophie des Lebendigen. Frankfurt 1980
  • R. Spaemann/R. Lw: Die Frage Wozu? Geschichte und Wiederentdeckung des teleologischen Denkens. Stuttgart 1981
  • W. Stegmller: Probleme und Resultate der Wissenschaftstheorie und analytischen Philosophie. Bd. 1. Berlin/Heidelberg/New York 1969. Kap. VIII
  • G. H. v. Wright: Erklren und Verstehen. Frankfurt 1974. S. 83 ff.