TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

tugend

đức hạnh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

phẩm hạnh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Đức. Hạnh

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Ðức hạnh

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

đức

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đúc tính

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đạo đức.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đạo đức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

đức tính

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tính tốt

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

tugend

virtue

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

Đức

tugend

Tugend

 
Metzler Lexikon Philosophie
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Chuyện cổ tích nhà Grimm

die eine mit Tugend, die andere mit Schönheit, die dritte mit Reichtum, und so mit allem, was auf der Welt zu wünschen ist.

Bà đầu chúc đức hạnh, bà thứ hai chúc sắc đẹp, bà thứ ba chúc giàu sang, phú quý... cứ như vậy các bà mụ chúc công chúa tất cả những điều tốt đẹp có thể mơ ước được ở trần gian.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Tugend /[’tmgsnt], die; -, -en/

(o Pl ) đạo đức; đức hạnh; phẩm hạnh; (Tugendhaftig keit);

Tugend /[’tmgsnt], die; -, -en/

đức tính; tính tốt;

Từ điển triết học Kant

Đức hạnh [Hi lạp: Arete; Latinh: Virtus; Đức: Tugend; Anh: virtue]

Xem thêm: Công bằng, Quyền/Pháp quyền, Tính dục,

Mặc dù trong CSSĐ, Kant có vẻ xem các đức hạnh truyền thống như sự tiết độ và sự tự chủ có giá trị chỉ như là phương tiện trong quan hệ với mục đích của một ý chí-thiện mà thôi, tuy nhiên ông cũng dành cho học thuyết về đức hạnh một phần đáng kể trong siêu hình học về đức lý của mình. SHHĐL được phân ra thành “hệ thống Học thuyết vê pháp quyền (ius), đề cập những nghĩa vụ có thể được mang lại do các luật pháp bên ngoài, và hệ thống Học thuyết về đức hạnh (Ethica) bàn về những nghĩa vụ không thể được mang lại như thế” (tr. 379, tr. 385). Kant phân biệt giữa những nghĩa vụ đạo đức nảy sinh từ bổn phận đạo đức nói chung và chỉ quan tâm đến “cái gì có tính hình thức trong sự quy định luân lý của ý chí”, với những nghĩa vụ của đức hạnh quan tâm đến các mục đích vốn cũng là các nghĩa vụ (SHHĐL tr. 383, tr. 188). Cái sau tạo nên những nội dung của học thuyết về đức hạnh và được phân loại theo hai loại mục đích cũng là những nghĩa vụ, nghĩa là những nghĩa vụ gắn với “sự hoàn hảo của bản thân” và những nghĩa vụ gắn với “hạnh phúc của những người khác”. Sự bàn luận về hai loại này hình thành những nội dung tưong ứng của Phần I và Phần II của “Học thuyết về đức hạnh”. Phần I bàn về những nghĩa vụ của đức hạnh đối với bản thân mình với tư cách là một tồn tại có tính cách sinh vật, như là không tự sát hay làm ô uế bản thân mình bởi khoái lạc, hoặc ăn uống quá nhiều; những nghĩa vụ đối với bản thân mình với tư cách là một tồn tại có luân lý như là tránh nói dối, tránh tính tham lam và sự hèn hạ; nghĩa vụ của lưong tâm, và nghĩa vụ không hoàn hảo trong việc hoàn thiện bản thân mình. Phần thứ hai xét đến những nghĩa vụ của đức hạnh đối với những người khác, trên hết là yêu thưong và tôn trọng họ.

Tuy Kant xác định lại nội dung và phạm vi của Học thuyết về đức hạnh có tính thực thể, truyền thống trong quan hệ với định nghĩa hình thức, mới mẻ của ông về giá trị luân lý và cái thiện, vẫn có những dấu vết của học thuyết cũ trong khắp các trước tác của ông. Một ví dụ đáng chú ý là những phần bàn về đức hạnh theo Platon và của phái Khắc kỷ trong PPLTTT như những lý tưởng cho việc phán đoán những gưong điển hình về đức hạnh (xem A 315/B 372 và A 569/B 597).

Thánh Pháp dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Tugend /f =, -en/

đức, đúc tính, đức hạnh, phẩm hạnh, đạo đức.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Tugend

[VI] Ðức hạnh

[DE] Tugend

[EN] virtue

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Tugend

[EN] virtue

[DE] Tugend

[VI] Đức. Hạnh

[VI] phẩm hạnh

Metzler Lexikon Philosophie

Tugend

(griech. Arete). In der späteren Bedeutung gibt es den Begriff zur Zeit der Abfassung der Homerischen Epen noch nicht. Die Helden dort sind als Menschen in ihrer Ganzheit Vorbilder, nicht Träger bestimmter, von ihnen ablösbarer Eigenschaften, die als anstrebenswert gelten könnten. Im 11. Gesang der Ilias, Vers 401 ff., scheint Odysseus vor die Wahl gestellt zu sein, im Kampf standzuhalten oder zu fliehen. Doch als Angehöriger seiner Schicht kann er gar nicht anders als standhalten. Er hat keine Wahl und auch keine spezifische T., wie beispielsweise die Tapferkeit, die ihn dazu bringen könnte, standzuhalten. Auch im oikos, dem naturwüchsigen antik-griechischen Gemeinwesen, weiß jeder Mensch aufgrund seiner sozialen Stellung, was er zu tun hat. Hier wie dort gibt es keinen Tugendkatalog und somit auch keine Tugendlehre. Von T.en kann erst gesprochen werden, wenn es sich um Eigenschaften handelt, die jeder Mensch haben kann. Erst Platon stellt in der Politeia einen Tugendkatalog auf. Die Erkenntnis einer T. geschieht am besten dadurch, dass man sie im Großen wahrnimmt. Der gerechte Staat sei besser zu analysieren als ein einzelner gerechter Mensch. Dieser Zugang ist für Platon insofern kein Problem, als öffentliches Recht und die Moral des einzelnen Bürgers in der Antike in Einklang stehen. Platon entdeckt auf diese Weise die T.en: Weisheit, Tapferkeit, Maßhaltung. Diese haben ihre Entsprechung in den drei Ständen des Staates: Lehrstand (Führer), Wehrstand (Wächter), Nährstand (Handwerker und Bauern) und in den Körper- und Seelenteilen des Menschen: Kopf, Brust, Leib oder: Geist (logistikon), Gemüt (thymos), Leidenschaft (epithymia). Sind alle drei Stände im Staate in Übereinstimmung, so dass jeder »das Seinige tut und sich nicht in vielerlei mischt« (Politeia 433 d), kann man von einem gerechten Staat sprechen. Und ebenso wird die Gerechtigkeit als höchste T. des einzelnen Menschen ausgezeichnet. Die sokratische Frage nach dem Wesen der T., die Thema in den platonischen Frühdialogen ist, zeigt, dass es zwar anerkannte T.en gibt, deren inhaltliche Bestimmung aber unklar ist. Die Harmonisierung aller T.en, also die Herstellung von Gerechtigkeit, ist für den Staat wie für den einzelnen Menschen das Ziel. Weder für den Staat noch für den einzelnen Menschen könne es eine T. allein für sich geben. Die T.en entfalten nur dann ihre Kraft, wenn sie miteinander in Harmonie gegenwärtig seien. Über die Benennung hinaus ist es schwer zu sagen, was für Platon der Inhalt einer jeden T. ist. Und das ist nicht nur ein Übersetzungsproblem. Im Laufe der geschichtlichen Entwicklung können wir andere Bedeutungen der einzelnen T.en ausmachen. Auch innerhalb einer Gesellschaft lassen sich mehrere Lesarten ein und derselben T. ermitteln. So sagt Aristoteles zur Glückseligkeit, die das telos aller T.en sei: »Die einen erklären sie für etwas Greifbares und Sichtbares wie Lust, Reichtum und Ehre, andere für etwas anderes, mit unter auch dieselben Leute bald für dies, bald für das« (Eth. Nic. 1095 a). – Aristoteles, der dem Gedanken vom harmonischen Einklang der T.en ebenfalls verpflichtet ist, sieht das geglückte Leben in der vernunftgemäßen Tätigkeit der Seele, die von der T. angeleitet wird, verankert. Unter einer menschlichen T. versteht Aristoteles die Tüchtigkeit der Seele. Die Seele hat bei ihm einen mit und einen ohne Vernunft ausgestatteten Seelenteil. Dementsprechend sind auch die T.en eingeteilt. Es gibt dianoëtische oder Verstandestugenden und ethische oder sittliche T.en. Verstandestugenden sind Weisheit, Verstand und Klugheit, sittliche sind z.B. Freigebigkeit und Mäßigkeit (vgl. Eth. Nic. 1102). Die Verstandestugenden erlange der Mensch durch Belehrung und die sittlichen T.en durch Gewohnheit. Die T.en sind uns nach Aristoteles also nicht von Natur gegeben. Um ein geglücktes Leben führen zu können, müssten in einem Menschen die beiden Seelenteile zusammenwirken. Die Willenswahl des Menschen muss harmonisch mit Verstand und sittlichem Habitus in Übereinstimmung sein. Die T. wählt dabei das richtige Ziel, der Verstand das richtige Mittel, um das Ziel zu erlangen. Entscheidend für die Mittelwahl ist das Treffen der rechten Mitte zwischen zwei Extremen. – Im christlichen MA. sind die T.en Eigenschaften, die den Menschen in die Lage versetzen, das Erden-Tal unbeschadet durchschreiten zu können und jenseitige Glückseligkeit zu erlangen. Die T.en sind mit dem Glauben verbunden und erwachsen aus ihm. Lebt man tugendhaft, dann wird »gewährt, in das ewige Reich unseres Herrn und Retters Jesus Christus einzutreten« (vgl. 2. Petrusbrief I, 3–11). – Kant stellt keinen Tugendkatalog auf, so wie wir ihn in der Antike und im Neuen Testament finden; er postuliert, dass sich die Handlungsmaximen der Menschen am Kategorischen Imperativ orientieren sollen: Jeder soll prüfen, ob seine Handlungsmaximen mit denen der anderen Handelnden verträglich sind. Nur Maximen, die eine solche Prüfung bestehen, sind gerecht, weil das »Reich der reinen praktischen Vernunft« selbst gerecht sei (vgl. Akad.-Ausg. VIII, S. 378). Und ein Mensch, der stets unter Anleitung von so gefundenen Maximen handelt, ist tugendhaft. T. ist bei Kant also die moralische Verfassung des Menschen. Ein Verstoß gegen das praktische Gesetz, das der Mensch sich als vernünftiges Wesen gegeben hat, widerspricht seiner Würde und seiner Selbstachtung. Darum habe der Mensch die Pflicht, nach diesem Grundsatz zu handeln. Kant spricht in diesem Zusammenhang in seiner »Tugendlehre« auch von einer Tugendpflicht (vgl. Akad.-Ausg. VI, S. 394 ff.). – Hegel nimmt in seinen Grundlinien der Philosophie des Rechts Bezug auf die antike Vorstellung: »Was der Mensch tun müsse, welches die Pflichten sind, die er zu erfüllen hat, um tugendhaft zu sein, ist in einem sittlichen Gemeinwesen leicht zu sagen, – es ist nichts anderes von ihm zu tun, als was ihm in seinen Verhältnissen vorgezeichnet, ausgesprochen und bekannt ist« (§ 150 A). – Neuerdings erleben wir eine Renaissance der Tugendethik, die darauf zurückzuführen ist, dass die Motivation zum moralischen Handeln in den ethischen Erörterungen nicht hinreichend berücksichtigt wurde (vgl. Pauer-Studer 2003, S. 55 ff. und Rippe/Schaber 1998, S. 9). Gegen die Tugendethik wird eingewandt, dass sie auf den Charakter eines Menschen abstellt und nicht auf eine Handlung, so dass jemand mutig handeln, sich aber für eine falsche Sache einsetzen kann, z.B. mutig für das Foltern von Menschen in Strafverfahren. Außerdem vermag die Tugendethik in praktischen Fragen, ob Abtreibung, aktive Sterbehilfe, der Gebrauch menschlicher Embryonen zu Forschungszwecken und Präimplantationsdiagnostik zulässig seien, »keine Orientierung zu liefern« (Rippe/Schaber 1998, S. 14). Dass wir diese heute in der komplexen Welt brauchen, ist unbestritten. Wir müssen informiert sein und uns klar machen, wie wir bei diesen neuen und schwierigen Problemen richtig entscheiden. Tugendhaftigkeit allein reicht also nicht aus.

DH

LIT:

  • J. Ebbinghaus: Gesammelte Aufstze, Vortrge und Reden. Darmstadt 1968 (S. 1193 zu Kant)
  • H.-G. Gadamer: Platons dialektische Ethik. Hamburg 1931 (bes. 5 und 6)
  • A. McIntyre: Der Verlust der Tugend. Frankfurt 1987
  • H. Pauer-Studer: Einfhrung in die Ethik. Wien 2003 (S. 5582)
  • C. Prantl: ber die dianoethischen Tugenden in der Nikomachischen Ethik des Aristoteles. Mnchen 1952
  • K.P. Rippe/P. Schaber (Hg.): Tugendethik. Stuttgart 1998
  • J. Ritter: Metaphysik und Politik. Frankfurt 1969 (S. 57179 zu Aristoteles und S. 256309 zu Hegel).