TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

ontologie

Bản thể học

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Triết Học Thực Tính

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

hữu thể học

 
Từ điển triết học Kant

thực thể học

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

ontologie

ontology

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển triết học Kant

Đức

ontologie

Ontologie

 
Metzler Lexikon Philosophie
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Typen der

 
Metzler Lexikon Philosophie

Pháp

ontologie

Ontologie

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Ontologie /die; - (Philos.)/

thực thể học; bản thể học;

Từ điển triết học Kant

Hữu thể học [Đức: Ontologie; Anh: ontology]

-> > Bản thể học,

Hy vọng [Hy Lạp: elpis; Latinh: spes; Đức: Hoffnung; Anh: hope]

Xem thêm: Niềm tin, Tình yêu,

Hy vọng, cùng với niềm tin và tình yêu tạo nên hệ thống “các đức hạnh thần học” mà Thánh Paul là người đầu tiên khai triển trong Các bức thư Corinthians 13:13 (xem thêm Aquinas, 1952, II, I, 62). Chúng tưong phản với bốn “đức hạnh chủ yếu” (cardinal virtues) gồm sự điều độ (temperance), lẽ công bình (justice), sự khôn ngoan (prudence) và nghị lực (fortitude). Các đức hạnh thần học là mục đích, còn các đức hạnh chủ yếu là phưong tiện để đạt tới mục đích ấy. Hầu như vắng bóng trong triết học cổ điển Hy Lạp, nhưng hy vọng lại xuất hiện nổi bật trong Thánh Kinh Tân Ước như sự mong ước kiểu thuyết mạt thế vào cuộc cứu rỗi trong tưong lai; tầm quan trọng của hy vọng được nhấn mạnh qua sự mô tả của Thánh Paul về Chúa như là “Thiên Chúa của hy vọng” (Romans 15:13)

Khái niệm Hy vọng là trung tâm trong tư tưởng của Kant, tuy vậy, ông chưa hề bàn rõ ràng về nó ở đâu cả. Trong GM, ông giới thiệu một “thiên kiến của lý tính (bias of reason)” như thể chiếc cân cho chúng ta sử dụng để cân lượng các lập luận, khẳng định rằng bàn cân đựng “các hy vọng vào tưong lai” luôn nặng hon bàn cân đựng “sự tư biện”. Điều này giải thích niềm hứng thú Kant dành cho các câu chuyện kể về đời sau (after-life) và về các linh hồn cư trú nổi đó. Các hy vọng của chúng ta vào tưong lai nặng cân hon các phán đoán của chúng ta trong hiện tại. “Thiên kiến này của lý tính” đối với Hy vọng, trong PPLTTT, trở thành một trong ba “mối quan tâm của lý tính”, thể hiện ra trong các câu hỏi: “1. Tôi có thể biết gì? 2. Tôi phải làm gì? 3. Tôi có thể hy vọng gì?” (A 805/B 833). Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của các câu hỏi này bằng cách khẳng quyết rằng “mọi hy vọng đều nhằm hướng tới hạnh phúc” và “hạnh phúc nhắm tới kết quả cuối cùng là sự tồn tại của một cái gì đó (là cái xác định cứu cánh tối hậu khả hữu), bởi “cái gì đó”phải diễn ra (A 806/B 834).

Cấu trúc choáng ngợp của Hy vọng xuất hiện tường minh trong các trước tác chính trị và lịch sử của Kant. Trong NHBVC, ông nhìn nhận nền hòa bình vĩnh cửu không phải là “một ý tưởng rỗng tuếch” nằm trong “gegründete Hoffnung”, hay trong “sự hy vọng có cơ sở vững vàng”, tức điều có thể được đạt tới thực sự. Bản thân sự hy vọng này có thể dùng để hiện thực hóa ý niệm ấy, mang nó từ tương lai về trong hiện tại (NHBVC tr. 386, tr. 130). Hy vọng cũng xuất hiện tường minh trong triết học thực hành, nơi Hy vọng về một đời sống vĩnh cửu sẽ định hình diễn trình hành động trong đời sống hiện tại này. ít rõ ràng hơn, song có tầm quan trọng tương đương, chính là vai trò của Hy vọng trong triết học lý thuyết, như nó xuất hiện trong lý giải của Heidegger về vai trò có tính phóng chiếu và tiền hình dung (proleptic) của sự tưởng tượng nơi tác vụ tổng hợp được mô tả trong tác phẩm Kant và vấn đề Siêu hĩnh học (Kant und das Problem der Metaphysik) (1929). Trong khi bản thân Kant có vẻ đã không nhận thức đầy đủ về các hàm ý triết học trong khái niệm của chính ông về Hy vọng, các hàm ý này đã được các triết gia của thế kỷ XX tường giải và phát triển xa hơn. Ví dụ trong ý niệm của Heidegger về “thời tính xuất thần” (ecstatic temporarily), trong ý niệm của Benjamin về “thời gian Cứu thê” (Messianic time) (xem Benjamin, 1973, tr. 255-66), hay trong cuộc khảo sát rộng rãi của Bloch trong quyển Nguyên Tắc của Hy Vọng (Prinzip Hoffnung) (1959).

Như Huy dịch

Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Ontologie /IT-TECH/

[DE] Ontologie

[EN] ontology

[FR] ontologie

Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Ontologie

[DE] Ontologie

[EN] ontology

[FR] Ontologie

[VI] Bản thể học

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Ontologie

[EN] ontology

[DE] Ontologie

[VI] Triết Học Thực Tính

[VI] triết học muôn khai phá thực châ' t của hiện hữu (" bản thể học" ). (On: hữu thể (being); logos (logic) (Hi-Lạp))

Metzler Lexikon Philosophie

Ontologie

(1) Namenserklärung: Der Name »O.«, den Goclenius (1613) neu gebildet hatte, setzte sich als Bezeichnung für den aristotelischen Titel »erste Philosophie« in der deutschen Schulmetaphysik des 17. Jh. nur zögernd durch, bis ihn Ch. Wolff allgemein zum Disziplinbegriff ausgestaltete. Auch heute versteht man O. als Disziplin der Philosophie neben Logik, Erkenntnistheorie, Ethik oder Anthropologie. Aber ihr Rang, »erste Philosophie« zu sein, ist sehr umstritten. Man verdeutscht O. (on: Seiendes; logos: Lehre) durch: »Lehre vom Seienden als solchem« oder auch: »Seinslehre«.

(2) Begriffsgeschichte: In dem Schriftwerk, das uns in vierzehn Büchern unter dem Titel »Metaphysik« überliefert ist, versucht Aristoteles den Gegenstand und die Methode einer Wissenschaft zu bestimmen, die im Vergleich mit allen anderen möglichen Wissenschaften als »erste Philosophie« ausgezeichnet wird, weil sie unvergleichlich mit dem »Ersten« (proton) zu tun hat, nämlich mit den ersten »Prinzipien und Ursachen des Seienden« (Met. E1, 1025b), und zwar für alles Seiende allgemein und im ganzen (Met. K3, 1060b31), das die Einzelwissenschaften, die ja je nur mit einem besonderen Seienden befasst sind, unthematisch voraussetzen. Die aristotelische Umschreibung des Gegenstandes der »ersten Philosophie« ist das to on e on, das Seiende als Seiendes, das ens quatenus ens. Die wesentliche Frage danach, was das Seiende ist (ti to on – Met. Z1, 1028b4), kann darum nur beantwortet werden, wenn man die »ersten Gründe« ermittelt. Unter dieser Rücksicht ist die erste Wissenschaft die »Wissenschaft des Warum« (an. post. 78a22 – 79a32; Met. 980a21 – 982a3), also – der Sache nach – Prinzipienwissenschaft. Dass die Warumfrage angesichts der Mannigfaltigkeit von Gründen und Ursachen zunächst undifferenziert auf einen »ersten« Einheitsgrund hinzielt, kann bei dem anfänglichen Problemstand nicht verwundern. Indem aber Aristoteles hinsichtlich der anderen Wissenschaften das Seiende nach Gattungen unterscheidet, sieht er sich gezwungen, für den schlechthin zureichenden Seinsgrund ein »höchstes Seiendes« als den vorzüglichsten Gegenstand der »ersten Wissenschaft« herauszuheben, von dem er als dem »Göttlichen« und dem »Gott« spricht. Deswegen nennt er die »erste Philosophie« auch »Theologie«. Obwohl klar ist, dass das, was unter dem Rangtitel »erste Philosophie« verhandelt wird, nicht in der »Theologie« aufgeht, prägt Aristoteles weder einen inhaltsbezogenen Begriff für den Teil der Seinslehre, die das Seiende als solches und das ihm notwendig Zukommende im ganzen untersucht, noch für das alle übrigen Teile umfassende Ganze. Erst der nach Aristoteles aufkommende Name »Metaphysik« schaffte hier die erforderliche Klarheit und Eindeutigkeit, auch wenn der sachliche Zusammenhang historisch lange Zeit im Dunkeln blieb, da sich der Peripatos, die an Aristoteles anknüpfende Schulrichtung, nicht in der direkten Auseinandersetzung mit den Schriften des Schulgründers entwickelte und dessen Schriften daher nicht, weil überhaupt nicht, unter dem Titel »Metaphysik« tradiert wurden. Dass dieser Titel aber bereits unmittelbar in der Nachfolge Aristoteles für die Sache der »ersten Philosophie« verwendet wurde, kann heute mit »größter Wahrscheinlichkeit« behauptet werden. Ein bibliothekarischer Verlegenheitstitel, wie man in neueren Zeiten immer wieder annehmen zu müssen meinte, ist er keineswegs; denn er trägt sowohl dem didaktischen als auch dem systematischen Gesichtspunkt Rechnung, falls man die griechische Vorsilbe »meta« aus dem platonisch-aristotelischen Sachzusammenhang deutet. Danach ist Metaphysik als erste Philosophie die für uns, unter didaktischer Rücksicht, schwerste Wissenschaft und folgt im Gang des natürlichen Erkennens zeitlich »nach« der »Physik«, sofern diese mit den Gründen und Ursachen des sinnenfälligen Kosmos zu tun hat. Der Übergang von diesem systematisch Späteren zu dem systematisch Früheren und Ersten ist ein »Hinüber zu den ersten Gründen«, ein ta meta tas archas, wie Theophrast es formulierte, ein Schritt von der Problemebene der Tatsachen in die Dimension der Prinzipien, also nicht zu einem »Über« oder »Hinter« dem Sinnlichen oder einem »Jenseits« des Sinnenfälligen in ein und derselben Problemebene, sondern ein Schritt in die Dimension der Prinzipien, der sich in dem Ausdruck »ta meta ta physika«, kurz »Metaphysik« schürzt und der seit Andronikos von Rhodos (1. Jh. v. Chr.) als Sachtitel für die »erste Wissenschaft« in seiner ganzen Spannweite der von Aristoteles zuerst artikulierten Themen gilt. Bis ins hohe MA. war es selbstverständlich, dass die »erste Philosophie« nichts anderes ist als Metaphysik und »Metaphysik« nichts anderes als philosophia prima, unbeschadet des Umstandes, dass das Problembewusstsein der Scholastik zum Teil nicht mehr auf der Höhe der aristotelischen Problemsituation war. Erst in der Umbruchphase der Neuzeit von der Renaissance über die Reformation zum Humanismus beginnt dieses Selbstverständnis brüchig zu werden. Die Wende kündigt sich durch eine neue Art der Auseinandersetzung mit der aristotelischen Metaphysik an. Während man sich vorher damit begnügte, das Werk zu kommentieren, ohne seine Anordnung und Einheit der Bücher anzutasten, bemühte man sich nun um eine selbständige systematische Aneignung, nicht zuletzt in der Absicht, es als Lehrbuch im Schulbetrieb zu gebrauchen. Bahnbrechendes auf diesem Gebiet leistete F. Suarez mit seinen Disputationes Metaphysicae (1597). Obwohl ihr systematischer Aufbau das Neue ist, abgesehen von dem nie gekannten Umfang, hält Suarez unangefochten an dem überlieferten Metaphysikbegriff fest. So lautet die erste Disputation auch: De natura primae philosophiae seu metaphysicae. Sein älterer Landsmann B. Pererius dagegen sah es als notwendig an, zwei Wissenschaften zu unterscheiden, wo eine war. Da er die verschiedenen Aufgaben der Metaphysik nicht mehr unter eine Sacheinheit bringen konnte, trennte er sie in eine scientia univeralis und in eine scientia particularis; diese nannte er Metaphysik, jene Erste Philosophie. Damit ist zum ersten Mal auch terminologisch die »erste Philosophie« nicht mehr »Metaphysik« und umgekehrt. Zwar hat sein Beispiel keine unmittelbare Nachfolge gefunden, aber die Unterscheidung von zwei Wissenschaften sollte nun allgemein Schule machen. So nimmt Goclenius sie in seiner Isagoge (1589) mit Bezug auf Pererius auf. Ihm folgen Alsted mit der Einteilung der Metaphysik in pars generalis und pars specialis. Was einstmals Sachtitel war, ist nun Oberbegriff, der die Einheit nur noch äußerlich wahrt. Schon Alsted verwendet den von Goclenius neugebildeten Ausdruck O. für die philosophia prima; nach ihm Calov, Micraelius, Clauberg und andere. Inzwischen war es selbstverständlich geworden, dass die O. als allgemeine Metaphysik das Seiende, sofern es seiend ist, untersucht, während sich die besondere Metaphysik mit Gott, Engeln und der abgetrennten Seele befasst; sie ist Theologie, Pneumatologie oder Psychologie. Aus den Teilen entwickeln sich allmählich die Disziplinen, was zur Folge hat, dass der Begriff Metaphysik in seiner tieferen Bedeutung entleert und im Grunde genommen gar nicht mehr als »erste Philosophie« verstanden wird. Nicht nur, dass der Gottesbegriff zu einem Spezialfall wird, auch der Seinsbegriff verliert seine Problemdimension der Prinzipien. Diese Entwicklung kommt mit Chr. Wolff zu einem ersten Abschluss, der durch sein lateinisches Werk Philosophia prima sive ontologia (1730) zugleich der weiteren Entwicklung vorgearbeitet hat. Von Wolff bis Kant ist nun die Unterscheidung von metaphysica generalis und metaphysica specialis schulphilosophisches Gemeingut. In seiner Deutschen Metaphysik (1720) hat Wolff noch versucht, das Ganze darzustellen. Die O. ist Grundwissenschaft aller Wissenschaften und innerhalb der Metaphysik der erste Teil, wobei die Subjektivität im cartesianischen Sinne zum einheitsstiftenden Band wird. Weil ihm aber bereits in Wahrheit ein inhaltlich fundierter Metaphysikbegriff fehlt, der zwischen den Problemebenen zu unterscheiden lehrt, Wolff also nur einen logischen Allgemeinbegriff verwendet, handelt er die Subjektivität des Subjektes, deren ontologische Allgemeinbegriffe übereinkommen sollen mit den allgemeinsten Bestimmungen des Seienden, aller Dinge überhaupt, in derselben Problemebene ab wie die Gegenstände der besonderen Teile (Welt, Seele, Gott), so dass die Einheit der Sache nur in der durchgängig demonstrativen Lehrart erhalten bleibt. Indem Wolff dann im Übergang zu seiner lateinischen O. den cartesianischen Ausgangspunkt vom Subjekt unterschlägt, verselbständigen sich ihm unterderhand die Teile der Metaphysik und werden eigenständige Werke und Disziplinen, für welche die O. allenfalls noch das terminologische Lehrfundament bildet. Diese Gestalt von Metaphysik und O. lernt Kant über die Vermittlung des Wolff Schülers A. Baumgarten kennen. Da Kant so wenig wie seine Vorgänger ein kritisches Quellenstudium trieb, musste ihm nach dem Erwachen aus dem »dogmatischen Schlummer« (Proleg. A13) diese Metaphysik mit allen vorausgehenden Versuchen völlig grundlos erscheinen. Sie hatte für ihn den Status, überhaupt Wissenschaft zu sein, noch gar nicht erreicht. Deshalb sollte Metaphysik allererst grundgelegt werden. Zwar ist sein Anliegen legitim, da sich kein philosophisches Denken der Aufgabe entschlagen darf, das aristotelische Projekt einer »ersten Wissenschaft« vom Ansatz her je neu überprüfend zu durchdenken, sonst knüpfte man unkritisch an tradierte Wissensbestände an. Aber indem Kant sein kritisches Unternehmen der Kritik der reinen Vernunft (1781) ohne Vorbild in Angriff nahm und sich lediglich auf das begriffliche Instrumentarium der Logik und des Satzes vom zu vermeidenden Widerspruch stützte, musste ihm fast notwendig die wesentliche Sachunterscheidung der Problemebenen von Vernunft als Prinzip und Faktum entgehen. Deshalb kam er in seiner transzendentalen Fragestellung auch nur dazu, nach den Bedingungen der Möglichkeit, nicht jedoch nach dem Grund von etwas überhaupt zu fragen. Für ihn ist die Dimension des Grundes identisch mit der Dimension der Bedingungen. Damit gelingt ihm nun zwar die Destruktion der tradierten Schulmetaphysik, indem er in der »Transzendentalen Dialektik« die vorzüglichen Gegenstände der metaphysica specialis (Welt, Seele, Gott) ad absurdum führt und in der »Transzendentalen Analytik« die metaphysica generalis ihres ontologischen Wahrheitsgehaltes beraubt und »Sein« nur noch auf die Funktion der Kopula im Urteil einschränkt. Aber Kant scheitert an seiner Aufgabe der Grundlegung, denn seine Transzendentale Logik vermag nicht mehr den Anspruch einzulösen, den die Schulmetaphysik behauptete. Darum musste der »stolze Name einer Ontologie ... dem bescheidenen, einer bloßen Analytik des reinen Verstandes, Platz machen« (KrV B303). – Mit Kant scheint das Schicksal der O. endgültig besiegelt zu sein. Das Auflehnen des Deutschen Idealismus gegen die Prämissen Kants gewann noch einmal – besonders in der Gestalt Hegels – die ganze Spannweite und Einheit der »ersten Philosophie« als Metaphysik zurück. Hegel hebt die Scheidungen der metaphysischen Disziplinen auf und lässt an ihre Stelle seine Wissenschaft der Logik (1812/16) treten, deren »objektiver« Teil die Stelle der »vormaligen Metaphysik« (Logik, Einl.) einnimmt, freilich unter der Rücksicht eines absoluten Standpunktes auf der Spitze der neuzeitlichen Subjektivität, was die Grundlegung der Metaphysik in der Seinsnatur des Menschen, so wie sie bei Aristoteles – wenn auch noch nicht explizit – angelegt ist, letztlich verhindert. – Nach dem sogenannten »Zusammenbruch des Deutschen Idealismus« wurde es zunächst ruhig um die O. Positivismus und Neukantianismus waren je auf ihre Weise antimetaphysisch eingestellt. Erst im letzten Drittel des 19. Jh. erwachte mit dem Aufkommen der Neuscholastik thomistischer Observanz wieder das Interesse an der Disziplin O. Unter dem Vorzeichen einer Wende zum Objektiven oder zu den »Sachen selbst« erneuerten sowohl die Phänomenologie Husserls als auch der kritische Realismus N. Hartmanns zu Beginn des 20. Jh. die O., ohne jedoch die Voraussetzungen der neuzeitlichen Bewusstseinsphilosophie zu verlassen noch gar hinter Kant zurückzugehen. Der wohl aufsehenerregendste Versuch, Heideggers Fundamentalontologie, ist lebensphilosophisch, neukantianisch und phänomenologisch motiviert; er bleibt bei einem nicht zu bestimmenden Seinsbegriff und damit bei einer »negativen O.« stehen. Überhaupt hat die sogenannte »neue O.« (Hartmann) daher weder etwas mit der O. Wolff’scher Prägung gemein, noch will sie die Sache der philosophia prima fortführen. War die Schulphilosophie des 16./17. Jh. in Verlegenheit, für einen abgezweigten Sachbereich der Metaphysik einen passenden Namen zu finden, so sah man sich nun vor dem Problem, ihn mit »neuem Inhalt« zu füllen. Allgemein ist der Ansatz, vom Gegebenen auszugehen und den Seinsbegriff auf Letztgegebenheiten einzuschränken. Dass man sich dadurch den Weg zu einer Prinzipienreflexion, die das Sachproblem O. im problemgeschichtlichen Zusammenhang der Frage nach der »ersten Philosophie« grundzulegen vermöchte, abschneidet, scheint man zu übersehen. Die neuen O.n, so verschieden und gegensätzlich sie sich in der Spannweite von Heidegger bis Quine darstellen, sind allesamt darum im Kern ametaphysisch.

(3) Sachproblem: Obwohl die Geschichte des Begriffes O. eine Traditionslinie nachzeichnet, in welcher sich das Grundproblem der »ersten Philosophie« als »Metaphysik« aus seiner Ursprungsdimension entfernte, wäre es verfehlt, gänzlich auf den Terminus O. verzichten zu wollen, falls man ihn in systematischer Absicht problemgeschichtlich thematisiert. Dann aber wird man vor allem jene epochalen Wissensentwürfe nicht übersehen können, die einer Metaphysik des Geistes (Platon, Augustinus, Anselm, Eckhart, N. v. Cues) verpflichtet sind. Denn sie bewegt durchgehend das eine kardinale Problem der Apriorität oder Seinswirklichkeit, worauf die Grundfrage »Warum« zielt. Am Leitfaden dieser Urfrage hat sich das Sachproblem dergestalt differenziert, dass man zwischen zwei Weisen von »Grund« zu unterscheiden weiß: einem universalen und einem absoluten, jener als der Seinsgrund der Möglichkeit im Menschen, genannt »Welt« oder »Weltall des Geistes« – in sich notwendig, an sich zufällig –, dieser als der schlechthin zureichende Grund, genannt »Gott« oder das »Absolute«, das sich freilich als »das höchste Thema der Metaphysik ... nur im Welthorizont des Denkens, im Auslegungshorizont des Weltsubjektes Mensch, im Horizont der endlichen mens einlösen läßt, insofern auch Welt oder das Weltall des Geistes in der physis anthropon (Seinsnatur des Menschen) das ist, über das nicht hinausgedacht werden kann« (W. Schrader, 1983, S. 329). – Unter dieser Rücksicht meint der Begriff O. weder eine Disziplin noch eine Spezialtheorie über Sein und Seiendes im Allgemeinen. Um ihn aber von seiner Wirkungsgeschichte abzuheben, muss er mit dem Begriff Metaphysik zusammengedacht werden. Sobald sich Metaphysik und O. sachlich wechselweise auslegen, ohne darum synonym zu sein, ordnet sich der Terminus »O.« dem Begriff »Metaphysik« attributiv unter, so dass sich eine ontologische Metaphysik einreiht in die übergreifende Tradition einer von Aristoteles vorskizzierten Problematik.

LR

LIT:

  • H. Krings: Fragen und Aufgaben der Ontologie. Tbingen 1954
  • M. Mller: Sein und Geist. Systematische Untersuchung ber Grundproblem und Aufbau mittelalterlicher Ontologie. Freiburg/Mnchen 21981
  • H. Reiner: Die Entstehung und ursprngliche Bedeutung des Namens Metaphysik. In: Zeitschrift fr philosophische Forschung 8 (1954)
  • W. Schrader: Zur Erneuerung der Frage nach der Ersten Wissenschaft. In: Perspektiven der Philosophie 9 (1983)
  • B. Weimahr: Ontologie. Stuttgart 1985.

Ontologie,Typen der

O. als »Lehre vom Sein« tritt in der Geschichte der Philosophie in zweierlei Gestalten auf: Diejenige, die schon bei Aristoteles und später bei Kant zur Geltung kommt, fordert eine Verständigung darüber ein, was die allgemeinsten Begriffe (oder Kategorien) sind, durch die das, was ist, bestimmt ist. Dieser Typ von O. ist gleichzusetzen mit der Kategorienlehre, d.h. der Analyse und der Theorie von Begriffen. Fragen nach dem ontologischen Status von Begriffen können auf dieser Ebene nicht gestellt werden. Der zweite (auch auf Aristoteles zurückreichende) Typ von O. rückt die Klärung der Frage, was es gibt, in den Vordergrund: z.B. ob es verschiedene Seinsweisen gibt, ob es außer Einzeldingen auch noch andere Arten von Gegenständen gibt, ob es ontologisch selbständige Entitäten gibt. Hinsichtlich dieser Fragen lassen sich wiederum zwei ontologische Modelle unterscheiden: Als monistische O. bezeichnet man jene Position, die nur eine einzige Entität oder eine einzige Art von Entitäten als selbständig existierend annimmt, als pluralistische O. jene Auffassung, die mehr als eine einzige Entität zulässt (bspw. James: Pragmatism and other Essays). Die monistischen Positionen innerhalb der O. lassen sich wiederum untereinander unterscheiden nach der Art von Entität, die sie jeweils als den einzig realen, d.h. im ontologischen Sinne wirklichen Sachverhalt anerkennen. Repräsentativ für einen substanzontologischen Monismus steht Spinoza, der einzig die Substanz als realen Sachverhalt identifiziert. Demgegenüber postuliert Hegels begriffsontologischer (oder subjektivitätsontologischer) Monismus, dass die zentrale ontologische Aufgabe nur im Rahmen einer Theorie des Begriffs zu leisten ist. Die durch die Theorie des Begriffs geforderten Bestimmungen zeigen an, was »in Wahrheit« ist.

PP