TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

tatsache

sự kiện

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

sự

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

việc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

sự thật

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chúng có

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thực tế

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thực tại

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

dẫn chúng.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Anh

tatsache

fact

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển triết học Kant
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Đức

tatsache

Tatsache

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

faktum

 
Từ điển triết học Kant
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Faktum,Tatsache

[VI] Sự kiện

[DE] Faktum; Tatsache

[EN] fact

Từ điển triết học Kant

Sự kiện [Latinh: factum; Đức: Faktum, Tatsache; Anh: fact]

Xem thêm: Diễn dịch, Tự do,

Dù sử dụng cả Faktum gốc Latinh lẫn Tatsache của tiếng Đức như là những chữ tương đương với factum, phân từ quá khứ của fecere (làm) có nghĩa là “cái gì đã được làm”, nhưng trước sau Kant vẫn phân biệt hai thuật ngữ này. Ông dùng thuật ngữ Faktum trong PPLTTH để biểu thị rằng nó được dùng bằng cách loại suy với Tatsache. Tuy nhiên, tình hình lại trở nên phức tạp bởi việc ông sử dụng không nhất quán thuật ngữ Tatsache trong PPLTTT và PPNLPĐ. Faktum trong “sự kiện của lý tính” của PPLTTH được sử dụng bằng cách loại suy với nghĩa hẹp của Tatsache trong PPLTTT, trong khi đó trong PPNLPĐ, Tatsache được gán một ý nghĩa rộng hơn chứa đựng cả nghĩa lý thuyết và nghĩa thực hành của thuật ngữ.

Trong chương về sự diễn dịch của PPLTTT, Kant dịch quid facti hay, câu hỏi về cái gì đúng với sự thực (“Cái gì được làm?”), là “die Frage... die Tatsache angeht” [“câu hỏi... liên quan đến sự kiện”]. Câu hỏi về sự kiện nhắm đến sự sử dụng và nguồn gốc của một khái niệm chứ không phải nhắm đến tính hợp pháp của việc sử dụng nó (PPLTTT A 84/B 116). Ở đây sự kiện quy chiếu tới cái việc đơn thuần được mang lại của các khái niệm thường nghiệm cho phép ta sử dụng chúng - “gán cho chúng một ý nghĩa và nội dung do ta tự nghĩ ra” (sđd) - mà không cần đến sự diễn dịch nào để biện minh sự sử dụng ấy cả. Tính trực tiếp của sự kiện được sử dụng bằng loại suy trong PPLTTH để mô tả ý thức về quy luật luân lý, nhưng sự sử dụng này được nói rất rõ trong PPNLPĐ §91, ở đó Kant phân loại “các sự vật có thể nhận thức được” thành “những sự việc của tư kiến”, “những sự việc của sự kiện” (Tatsachen) và “những sự việc của lòng tin”. Nhưng khi không còn được mang lại một cách trực tiếp và không nghi vấn, các sự kiện là những đối tượng “trả lời cho những khái niệm có thể được chứng minh” bằng kinh nghiệm hoặc bằng lý tính thuần túy. Những đối tượng này bao gồm các thuộc tính của những đại lượng hình học, các sự vật có thể kiểm tra được bằng kinh nghiệm và cuối cùng, và ngoại lệ, một ý niệm của lý tính, cái ý niệm duy nhất có thể được chứng minh bằng kinh nghiệm. Đó là ý niệm về sự tự do, một ý niệm có tính chất sự kiện duy nhất mà “tính thực tại của nó, xét như tính thực tại của một loại tính nhân quả đặc thù” được kiểm chứng bằng cả “các quy luật thực hành của lý tính thuần túy” lẫn bằng “những hành vi diễn ra, tuân theo các quy luật ấy”.

Trong phần diễn dịch về sự tự do xét như là một sự kiện, Kant báo hiệu một sự thay đổi về chiến lược khi nói đến “sự kiện của lý tính” trong PPLTTH. Trong PPLTTH, Faktum là không thể kiểm chứng được; nó mô tả cái ý thức trực tiếp về quy luật cơ bản của lý tính thuần túy đang “áp đặt lên ta một cách vô-điều kiện như một “sự kiện của lý tính”, và “tự tuyên bố là nguồn khởi sinh quy luật” (tr. 31) Quy luật luân lý hay “sự kiện của lý tính thuần túy” là “sự chắc chắn hiển nhiên”, không dựa vào bất cứ căn cứ có thể kiểm chứng nào mà chỉ vì ta có “ý thức một cách tiên nghiệm” về nó. Nó giống với Tatsache trong PPLTTT ở chỗ nó không được gọi ra để trả lời cho bất cứ câu hỏi nào về quyền hạn hay quaestio quid juris (câu hỏi vê cái gì là đúng pháp luật), nhưng khác với Tatsache trong chừng mực nó có thể không bao giờ được gọi ra để làm việc đó; nó được “xác lập một cách vững chắc tự bản thân mình” (tr. 47, tr. 48). Vì thế Kant dùng thuật ngữ theo kiểu loại suy, và biểu thị rõ điều này khi nói rằng quy luật luân lý được mang lại “hầu như” (gleichsam) bằng một sự kiện. Không phải quy luật luân lý là một sự kiện, mà đúng hơn, tính trực tiếp của nó có thể được mô tả bằng sự loại suy với tính trực tiếp của một sự kiện. Tuy nhiên, trong PPNLPĐ, Kant lại từ bỏ luận cứ bằng sự loại suy này, và chuộng cách lập luận rằng sự tự do, cũng như bất cứ sự kiện nào khác, có thể được kiểm chứng bằng cả sự tự do lẫn kinh nghiệm.

Nguyễn Thị Thu Hà dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Tatsache /f =, -n/

sự, việc, sự kiện, sự thật, chúng có, thực tế, thực tại, dẫn chúng.

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Tatsache

fact

Metzler Lexikon Philosophie

Tatsache

Der Ausdruck »T.« wird umgangssprachlich häufig mit dem Ausdruck »reale Existenz« gleichbedeutend gebraucht. Das erklärt sich aus dem Verständnis, dass eine Tatsache das sei, was wirklich existiert. Semantisch korrekt wäre dagegen die unterscheidende Formulierung: Ein Ding existiert, eine T. ist der Fall, nicht aber: sie existiert. Die Notwendigkeit der Unterscheidung zwischen Ding und Tatsache ergibt sich daraus, dass zu jedem wahren Urteil eine bestimmte Tatsache gehört. Da aber auch falsche Urteile Objekte haben, ist eine Differenzierung zwischen zwei Arten von Urteilsobjekten notwendig.

Entsprechend der Korrespondenztheorie der Wahrheit ist der Terminus T. eine Bezeichnung für das, was einer Aussage (wenn sie wahr ist) in einer nichtsprachlichen Wirklichkeit entspricht (wobei diese Annahme einer nicht-sprachlichen Wirklichkeit noch näher zu bestimmen wäre). Nach Russells Erklärung sind mit T.n Dinge gemeint, die eine Aussage wahr (oder falsch) machen. Bspw. Für die Aussage »es regnet« ist der Zustand des Wetters, der diese Aussage wahr macht, dasjenige was man T. nennt. In Wittgensteins Erklärung stellt die T. einen bestehenden Sachverhalt dar: Die Welt ist die Gesamtheit der T.n, d.h. die Gesamtheit aller und nur der bestehenden T.n. Während die T. stets etwas betrifft, was der Fall ist, stellt ein Sachverhalt etwas dar, was bloß möglicherweise der Fall ist. Was ein beliebiger, nicht rein logisch gültiger Satz behauptet, ist somit stets ein Sachverhalt. Ist der Satz wahr, dann besteht dieser Sachverhalt, der dann T. genannt wird. – Die Erkenntnistheorie und Wissenschaftstheorie thematisieren den Begriff der T. hinsichtlich des spezifischen Phänomenbereichs der unterschiedlichen Wissenschaften. Nach dem naturwissenschaftlich-empiristischen Verständnis beruhen Tatsachenaussagen auf der empirisch-deskriptiven Methode, die sich auf das Feststellen von empirisch wahrnehmbaren Daten beschränken. Ein erweiterter Begriff von T. bezieht sich auf soziale Institutionen (wie bspw. eine Taufe, ein Vertrag, eine Eheschließung). Aussagen über solche T.n lassen sich nicht auf deskriptive Aussagen über physische oder psychische Eigenschaften bestimmter Sachverhalte zurückführen. Searle schlägt die Unterscheidung zwischen natürlichen und institutionellen T.n vor. Institutionelle T.n setzen ein System konstitutiver Regeln voraus, die eine bestimmte Tätigkeit (bspw. das Ja-Wort und das Ringe-Tauschen) in einem bestimmten Kontext (Standesamt) als eine bestimmte Handlung (Eheschließung) erklären.

PP

LIT:

  • R.M. Chisholm: Person and Object. London 1976
  • G. Patzig: Satz und Tatsache. In: Sprache und Logik. Gttingen 21981. S. 39 ff
  • B. Russell: An Inquiry into Meaning and Truth. London 41951. S. 298 ff
  • J.R. Searle: Sprechakte. Frankfurt 1971. S. 78 ff
  • E. Stenius: Wittgensteins Traktat. Frankfurt 1969. Kap. VI u. VII
  • P. Winch: Die Idee der Sozialwissenschaften und ihr Verhltnis zur Philosophie. Frankfurt 1974
  • L. Wittgenstein: Tractatus logicophilosophicus (Werkausgabe Bd. 1). Frankfurt 1984. Abschnitt 2.1141, 3.14.