TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

gott

thượng đế

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

thiên chúa

 
Từ điển triết học Kant
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

hiếm -s

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Götter trôi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chúa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chúa tròi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ông tròi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thiên đế

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngọc hoàng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thần

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đấng thần linh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thần thánh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Trời

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Chúa trời

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Đức Chúa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thế này nhé

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thượng đế/thiên chúa

 
Từ điển triết học Kant

Thần Linh

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Anh

gott

god

 
Từ điển triết học Kant

Đức

gott

Gott

 
Metzler Lexikon Philosophie
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Götter

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Chuyên ngành chất dẻo (nnt)

Der römische Gott Vulkan stand Pate bei der Namensfindung, ihm werden die Attribute Feuer, Hitze und Schwefel zugeschrieben.

Lưu hóa (vulcanisation) là phương pháp được gọi theo tên một vị thần La Mã với các đặc tính như lửa, nhiệt nóng và lưu huỳnh.

Chuyện cổ tích nhà Grimm

Ei, du mein Gott! Ei, du mein Gott!

Oh ! Chúa ơi !

Ei, du mein Gott, wie ängstlich wird mir's heute zumut, und bin sonst so gerne bei der Großmutter!

em nghĩ bụng hôm nay ở nhà bà sao lại thấy rờn rợn, chứ không thoải mái như mọi khi.

Und nicht lange, so öffnete es die Augen, hob den Deckel vom Sarg in die Höhe und richtete sich auf und war wieder lebendig. "Ach Gott, wo bin ich?" rief es.

Ngay sau đó, nàng từ từ mở mắt ra, nâng nắp quan tài lên, ngồi nhỏm dậy và nói:- Trời ơi, tôi đang ở đâu đây?

Liebes Kind, bleibe fromm und gut, so wird dir der liebe Gott immer beistehen, und ich will vom Himmel auf dich herabblicken, und will um dich sein. Con yêu dấu của mẹ, con phải chăm chỉ nết na nhé, mẹ sẽ luôn luôn ở bên con, phù hộ cho con. 5e5cec7da64ff856497ed8ca872e0e76

Darauf tat sie die Augen zu und verschied.

Nói xong bà nhắm mắt qua đời.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

wie es Gott gefallt

theo ý Chúa

Gottes Wort

như trong Kinh Thánh

Gottes Sohn

Chúa Jesus

bei Gott schwören

thề có trời đất chứng giám

was Gott zusammengefügt hat, das soll der Mensch nicht scheiden

những gi Thiên Chúa đã kết hạp thì loài người không được phân ly (trích nghi thức hôn phối)

hilf dir selbst, so hilft dir Gott

hãy tự giúp mình rồi Trời sẽ giúp

grüß [dich, euch, Sie] Gott! (landsch.)

xin chào!

behüt dich Gott! (südd., österr.)

tạm biệt, hãy bảo trọng!

Vergelts Gott! (landsch.)

xin cảm ơn!

Gott behüte/be-

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bei Gott schwören

thề, tuyên thệ, phát thệ; ♦

bẹi Gott!

ối trồi ơi!, ~

léider Gott es

đáng tiếc, thật là đang tiếc!;

großer Gott!

ơi! ối trời ơi!; ~

um Gott es willen!

1) trời ơi; 2) do tròi; ~

dem lieben Gott den Tag [die Tage] (áb) stehlen

ăn không ngôi rồi, nằm khàn, không làm lụng gì hết;

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Gott,Götter

[VI] Thiên Chúa; Thượng đế; Thần Linh

[DE] Gott; Götter

[EN]

Từ điển triết học Kant

Thiên Chúa [Đức: Gott; Anh: God]

-> > Thượng Đế,

Thượng Đế/Thiên Chúa [Đức: Gott; Anh: God]

Xem thêm: Loại suy/Tương tự, Nhà thờ, Lòng tin, Định đề, Biện thần luận, Thần học,

Cách hiểu triết học của Kant về Thượng đế vẫn nhất quán xuyên suốt sự nghiệp học thuật của ông. Cách hiểu này được phát biểu rõ trong câu cuối quyển HHTĐ, ở đó ông tổng kết một sự xét lại có phê phán về những luận cứ chứng minh cho sự hiện hữu của Thượng đế bằng sự phủ nhận: “Trong khi ta tin rằng Thượng đế hiện hữu là tuyệt đối tất yếu; [thì] việc chứng minh sự hiện hữu của Ngài lại không tất yếu” (tr. 163, tr. 201). Cảm tưởng này là dư âm của nhận định được Kant nêu lên trong Lời tựa cho lần xuất bản thứ hai của PPLTTT, ở đó ông thừa nhận rằng trong các vấn đề về Thượng đế, sự tự do và sự bất tử, ông đành “phải dẹp bỏ nhận thức [sai lầm] để nhường chỗ cho lòng tin” (PPLTTT B 30). Các trước tác của ông về vấn đề Thượng đế đều hoàn toàn thấm nhuần sự căng bức giữa lòng tin vào Thượng đế và tri thức chứng minh về sự hiện hữu của ngài. Các trước tác này có thể được chia thành năm nhóm riêng biệt.

Trong nhóm thứ nhất, gồm các trước tác thần học: HHTĐ, “Ý thể của lý tính thuần tuý” trong PPLTTT và THTN, Kant làm xói mòn những luận cứ chứng minh bản thể học, vũ trụ học và thần học vật lý hay mục đích luận về sự hiện hữu của Thượng đế của môn thần học triết học truyền thống. Trong các văn bản này, ông đối lập các kỳ vọng với tri thức tư biện về Thượng đế của “những kẻ mơ mộng xây dựng lâu đài” của lý tính (GM tr. 324, tr. 329) như Christian Wolff, người hệ thống hóa thần học triết học. Trong nhóm thứ hai, gồm cuốn GM, ĐHTD và TG, ông điều chỉnh sự cân bằng bằng cách đặt đối lập các kỳ vọng với kinh nghiệm trực quan trực tiếp về Thượng đế vốn vẫn còn được duy trì nổi những người cuồng tín về lòng tin như: Swedenborg, Hamann và Jacobi. Trong khi các triết gia tin rằng những luận cứ chứng minh của họ đã mang lại cho họ tri thức về Thượng đế, thì những người cuồng tín lại tin rằng những sự loại suy nhân hình luận thô thiển mang lại cho họ một kinh nghiệm huyền học về tính thần thánh. Từ thế đứng của sự phê phán của mình về thần học triết học, Kant giới hạn nhận thức về Thượng đế vào sự loại suy và sự sử dụng nó như một ý niệm điều hành; sự hạn chế này cùng với sự phê phán của ông về kinh nghiệm huyền học về Thượng đế được kết hợp lại để xác lập những thông số của nhóm trước tác thứ ba, gồm PPLTTT, TG và trên hết là PPLTTH. Nhóm này xác định vị trí đúng của Thượng đế là nằm trong kinh nghiệm thực hành, và khảo sát nghĩa luân lý về Thượng đế như một “định đề của lý tính thuần tuý” (PPLTTH tr. 133, tr. 137 và tiếp) cần thiết để đảm bảo sự tôn kính đối với quy luật. Nhóm các trước tác thứ tư, chủ yếu là cuốn TG, phân tích thiết chế của nhà thờ, trong khi một nhóm các trước tác thứ năm và khá mổ hồ, gồm PPNLPĐ, LSPQ, HBVC, và BTL, tập trung vào vai trò của Thượng đế trong lịch sử, với sự quy chiếu đặc biệt đến biện thần luận và sự thiên hựu.

Trong năm nhóm trước tác này, những nhóm có ảnh hưởng nhất là nhóm thứ nhất và thứ ba. Mối quan hệ giữa sự phê phán thần học và luận cứ ủng hộ cho lòng tin thực hành đã kích thích nhiều thế hệ của những nhà lý giải. Thêm vào đó, rất nhiều công trình đã được thực hiện dựa trên chi tiết của sự phê phán về ba sự chứng minh thần học/triết học cho sự hiện hữu của Thượng đế. Việc đột ngột gia tăng gần đây mối quan tâm đến triết học của Kant về lịch sử càng làm tăng thêm sự nhạy cảm xoay quanh chủ đề về thiên hựu, và quan hệ giữa quan niệm này về Thượng đế với sự phê phán về thần học và lòng tin luân lý. Tuy nhiên, một nghiên cứu toàn diện về toàn bộ quan niệm của Kant về Thượng đế, một nghiên cứu hẳn sẽ phải bao quát cả năm nhóm văn bản ấy, vẫn còn chưa được thực hiện.

Nguyễn Thị Thu Hà dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Gott /[got], der; -es (selten in festen Wen dungen -s), Götter/

(o PL; o Art außer mit attributiver Bestimmung) Trời; Chúa trời; Thượng đế; Đức Chúa;

wie es Gott gefallt : theo ý Chúa Gottes Wort : như trong Kinh Thánh Gottes Sohn : Chúa Jesus bei Gott schwören : thề có trời đất chứng giám was Gott zusammengefügt hat, das soll der Mensch nicht scheiden : những gi Thiên Chúa đã kết hạp thì loài người không được phân ly (trích nghi thức hôn phối) hilf dir selbst, so hilft dir Gott : hãy tự giúp mình rồi Trời sẽ giúp

Gott /ôi trời đất ơi!; [ach] Gott, .../

thế này nhé;

grüß [dich, euch, Sie] Gott! (landsch.) : xin chào! behüt dich Gott! (südd., österr.) : tạm biệt, hãy bảo trọng! Vergelts Gott! (landsch.) : xin cảm ơn! Gott behüte/be- :

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Gott /m -es u/

hiếm -s, Götter trôi, chúa, chúa tròi, ông tròi, thượng đế, thiên đế, ngọc hoàng, thần, đấng thần linh, thần thánh; zu - béten lạy trời lạy phật; Gott lästern báng bổ, chửi rủa, lăng mạ; au/ - báuen hi vọng ỏ trôi; bei Gott schwören thề, tuyên thệ, phát thệ; ♦ bẹi Gott! ối trồi ơi!, Gott sei Dan k! may quá! may mắn thay!; léider Gott es đáng tiếc, thật là đang tiếc!; großer Gott! ơi! ối trời ơi!; Gott bewahre! lạy trôi đùng, mong sao đùng; um Gott es willen! 1) trời ơi; 2) do tròi; Gott weiß! có mà trời biết!; dem lieben Gott den Tag [die Tage] (áb) stehlen ăn không ngôi rồi, nằm khàn, không làm lụng gì hết; den lieben - einen guten Mann sein lassen không nghĩ về tương lai, không can tâm về gì;

Metzler Lexikon Philosophie

Gott

Zentralbegriff in vielen Religionen (und deren Theologie), der Religionswissenschaft wie auch in der abendländischen Metaphysik. In beiden wird der Begriff in einer Vielfalt von Bezügen verwendet. In den Religionen z.B. werden viele Götter verehrt (Polytheismus), oder ein Hauptgott (Henotheismus) oder nur ein G. (Monotheismus); G. oder Götter bezeichnet dort mal ein absolutes Wesen, mal eine hilfreiche Kraft, mal dämonenartige Wesen oder sogar einen Teil der schlechten Schöpfermacht (so die Devs im Mazdaismus). – Grundsätzlich sind der Gottesfrage gegenüber folgende Haltungen möglich: die Leugnung seiner Existenz (Atheismus), die Verneinung der Erkennbarkeit (Agnostizismus) und die Behauptung beider (Theismus).

Die abendländische Verwendung des Wortes schöpft aus zwei Quellen: Die griech. Philosophie bezeichnet G. ontologisch als »in jeder Hinsicht vollkommen« (Platon: Politeia 381b) oder als »das erste und eigentlichste Prinzip« (Aristoteles: Met. 1064a 37). Die biblischen Schriften stellen G. als Person, als weltüberlegenen, transzendenten Schöpfer vor, dessen Wille in die Geschichte eingreift, nach christlichem Bekenntnis einmalig inkarniert in Jesus. Seit der Patristik gehen beiderlei Herkunft in Philosophie und Theologie wechselnde Verbindungen ein. Durch Gottesbestimmungen v.a. platonischer Herkunft wird von Beginn christlicher Reflexion an eine Verschränkung erleichtert, etwa durch seine Benennung als das höchste Gut, die mittel- und neuplatonisch betonte göttliche Transzendenz, die schöpfungstheologische Umdeutung der Ideenlehre oder die Deutung der Heilsgeschichte im (neuplatonischen) Schema von proodos und epistrophe (Fortgang und Umkehr).

Spät-MA. und Reformation akzentuieren besonders stark den Willen G.es. Schriftprinzip, Christozentrik und Misstrauen gegenüber natürlich-vernünftiger Gotteserkenntnis führen z.B. Luther dazu, »im gekreuzigten Christus die wahre Theologie und Gotteserkenntnis« zu sehen. Die katholische Theologie hat mit Verweis auf Paulus (Römerbrief 1, 20) stets an der Möglichkeit natürlicher Gotteserkenntnis festgehalten. Die Diskrepanz zwischen dem »G. Abrahams, Isaaks und Jakobs und dem G. der Philosophen« (Pascals Memorial; vgl. Weischedel, S. XVII) tritt in der Neuzeit deutlicher hervor. Als extreme Standpunkte könnten auf der einen Seite Spinozas »amor dei intellectualis« gelten, auf der anderen K. Barths dialektische Theologie: Setzt Spinoza G. mit der einen Substanz gleich, von deren Modi uns nur Denken und Ausdehnung zugänglich sind (sein G. ist also nicht mit dem biblischen vergleichbar), ist für Barth G. nur durch die Offenbarung zu erreichen. Alles andere ist »trunkene Verwischung der Distanzen« (vgl. Zahrnt, S. 35).

G. wird in der abendländischen philosophischen Theologie bestimmt als höchstes Sein, ein »Prinzip, dessen Wesen Verwirklichung« ist (Aristoteles: Met. 1071b 20). v.a. in neuplatonischer Perspektive wird ihm damit auch die größtmögliche Einheit zugesprochen. Das Erste und Eine ist gleichzeitg aber auch wesentlich gut (Platon: Politeia 379). Weitere Attribute G.es sind Einzigkeit (im islamischen Bekenntnis an erster Stelle), Unwandelbarkeit, Ewigkeit, Allmacht und Allwissenheit (vgl. Boethius: Consolatio IV und V). Aus Letzteren ergeben sich beständige »Interferenzprobleme« mit der menschlichen Freiheit: Wie frei kann menschliche Wahl noch genannt werden, wenn G. ihr Ergebnis schon im Voraus kennt? Ähnliche Fragen stellen sich auch durch die von Augustinus inaugurierte Gnadenlehre: Wie gründet die Freiheit des Menschen zum Guten in der allmächtigen Güte G.es? Dass G. unkörperlich sei, ist vorrangiger, aber nicht einheitlicher Befund in der abendländischen Tradition: Die Gotteslehre der Stoiker z.B. schreibt ihm materiellen Bestand (z.B. Feuer) zu und noch Tertullian nennt G. »corporalis«. Dazu kommen kosmologische »Funktionen«: G., bei Aristoteles (Met. 1072 b) »ein lebendes, ewiges und bestes Wesen«, ist auch der erste unbewegte Beweger: er ist »das, was als Erstes von allem alles bewegt« (ebd. 1070 b 34f), und zwar »wie etwas, das geliebt wird« (1072 b 3), denn Begehrtes und Gedachtes bewegt, ohne bewegt zu sein. Thomas von Aquin nimmt die kosmologischen Argumente in den »quinque viae« (S.Th. I, 2, 3 c; Gottesbeweis) auf. Danach folgen für das, »was alle Gott nennen«, neben dem unbewegten Beweger, G. als erste Ursache und als das, was von sich aus notwendig ist. Hinzukommen noch die Bestimmungen G.es als dem, was höchst gut, höchst wahr und höchst seiend ist und die Gradualität innerhalb des Seienden ermöglicht und der oberste Lenker, der alle natürlichen Dinge auf ihr Ziel zuordnet.

Neben dem ontologisch-kosmologischen eröffnet v.a. Augustinus einen weiteren Weg: Die Selbsterforschung erschließt dem Menschen die Erkenntnis G.es. Augustinus’ Formulierung: »Du aber [G.] warst mir noch innerer als mein Innerstes und höher als mein Höchstes« (Confessiones III 6; 11). Locus classicus ist das X. Buch der Confessiones mit seiner Wegbeschreibung durch die Stufen des Gedächtnisses (memoria). Dieser G.es-Gedanke entfaltet sich im wechselseitigen Verhältnis von G.es- und Selbstbewusstsein: Bei Descartes begründet die Gottesidee, die einen täuschenden G. ausschließt, die Möglichkeit sicherer Erkenntnis; bei Hegel deckt sich das Sich-selbst-Wissen des Menschen und G.es: Der Mensch weiß nur von G., insofern G. im Menschen von sich selber weiß.

Für das Verhältnis G.-Welt sind folgende Modelle paradigmatisch: (1) Ineinssetzung: Die Welt in ihrer Gesamtheit gilt als göttlich (Pantheismus). (2) Emanation: Die Welt ist Ausfluss des Göttlichen (besonders im neuplatonischen Denken ist der stufenweise Hervorgang aus dem göttlichen Einen ausgestaltet). (3) Radikale Verschiedenheit: Die »negative Theologie« lebt aus der Unangemessenheit weltlicher Kategorien für das schlechthin Transzendente. Alle Bezeichnungen, Prädikate und Metaphern können nicht auf das Göttliche selbst zutreffen. In diesem Sinne nennt z.B. Dionysios Areopagita G. »überwesentlich, überseiend«. (4) Teilhabe: Die Welt ist nur in Teilhabe am göttlichen Sein; sprachlich korrespondiert die Redeweise der Analogie: das G.-Welt-Verhältnis ist als ähnlich nur bei gleichzeitiger Unähnlichkeit auszusprechen. (5) Indifferenz: »Wie die Welt ist, ist für das Höhere vollkommen gleichgültig« (Wittgenstein). Am deutlichsten vertritt der Deismus das Prinzip, dass G. nicht (mehr) in die Welt eingreift.

PK

LIT:

  • Art. Gott. In: HWPh
  • S. Moser/E. Pilick (Hg.): Gottesbilder heute. Knigstein/Ts. 1979
  • O. Muck: Philosophische Gotteslehre. Dsseldorf 1983
  • H. Rssner (Hrsg.): Der nahe und der ferne Gott. Berlin 1981
  • H.-J. Schultz (Hg.): Wer ist das eigentlich Gott? Mnchen 1969
  • W. Weischedel: Der Gott der Philosophen. 2 Bde. Mnchen 21985.