TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

khai minh

khai minh

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Sáng soi

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

khởi phát

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

mở đường

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

giáo hóa

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

phong trào chiếu sáng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thời kỳ khai minh

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Anh

khai minh

enlightenment

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đức

khai minh

Aufklärung

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

enlightenment

(1) Sáng soi, khai minh, khởi phát, mở đường, giáo hóa, (2) phong trào chiếu sáng, thời kỳ khai minh [là phong trào hay trào lưu tư tưởng chủ trương dùng lý tính con người để chế ngự toàn thể văn hóa hay tư tưởng nhân loại, đặc biệt là vào khoảng thế kỷ 1

Từ điển triết học Kant

Khai minh [Đức: Aufklärung; Anh: enlightenment]

Xem thêm: Lương thức/Cảm quan chung, Triết học phê phán, Lịch sử Triết học, Công khai (tính), Lý tính,

Phong trào trí thức châu Âu thế kỷ XVIII được biết như thời Khai minh đã trải qua ba giai đoạn khác nhau ở Đức. Giai đoạn đầu, tức giai đoạn duy lý, được Thomasius khai mào ngay đầu thế kỷ tại trường Đại học Halle, và được Christian Wolff hệ thống hóa. Cả hai đều từ bỏ tiếng Latinh hàn lâm để ủng hộ cho tiếng mẹ đẻ, với việc Wolff cố làm cho những tác phẩm của ông vượt khỏi những khuôn khổ của các trường đại học và các giới chuyên nghiệp. Hệ thống của ông bắt đầu với Logic học, và tiến hành thông qua siêu hình học đến đạo đức học, chính trị học và kinh tế học. Dưới áp lực chính trị từ vị quân chủ nước Phổ là Frederick William I, Wolff bị buộc phải rời nước Phổ năm 1723. Ông sống lưu vong, đó là thời gian mà ông đã viết lại hệ thống của mình, lần này là bằng tiếng Latinh cho độc giả quốc tế là những học giả. Với sự quay trở lại nước Phổ vào dịp Frededrick II lên ngôi năm 1740, Wolff có vẻ giống như một nhà trí thức đã quá thời. Tâm trạng của thời Khai minh đã thay đổi, giờ đây nhấn mạnh vào thuyết hoài nghi và lưong thức (common sense) hon sự thực hành của lý tính trừu tượng. Vào giữa thế kỷ, rất ít triết gia viết về những hệ thống duy lý, sự ưa thích hon được dành cho những bài luận “hoài nghi” hóm hỉnh vốn bắt chước theo những bài luận của Hume. Những trước tác tiền-phê phán của Kant rổi vào trong giai đoạn này của thời Khai minh, điển hình là quyển Beobachtungen über das Gefühl des Schönen und Erhabenen [Các quan sát về cảm xúc cái Đẹp và cái Cao cả] (1764) của ông. Tuy nhiên, trong “thập niên im lặng” 1770, Kant quay trở lại với triết học có hệ thống, chặt chẽ, đứng về phía Wolff để chống lại những người (kể cả bản thân ông thời trẻ) “không có mục đích nào khác hon là muốn vứt bỏ hết các ràng buộc nghiêm ngặt của khoa học” (PPLTTT B 37). Với việc công bố quyển PPLTTT năm 1781, ông đã mở đầu giai đoạn thứ ba của thời Khai minh, tức giai đoạn tìm cách nối kết thuyết hoài nghi phê phán với sự nghiêm xác có hệ thống.

Trong Lời tựa cho ấn bản I cuốn PPLTTT, Kant mô tả thời đại của ông như một thời đại của sự phê phán; phê phán tôn giáo, chính trị và thậm chí cả bản thân lý tính. Sự phê phán đòi hỏi phải đặt những niềm tin tôn giáo, chính trị và trí tuệ vào dưới “sự kiểm nghiệm tự do và công khai” (PPLTTT A 12) để dành việc phán quyết cho “sự nhất trí của cộng đồng những người công dân tự do, trong đó ai ai cũng có thể phát biểu không chút ngần ngại mọi ý kiến thắc mắc và bất đồng của mình, thậm chí có cả quyền phủ quyết nữa” (PPLTTT A 739/ B 767). Trong bài viết “Beanwortung der Frage: Was ist Aufklärung?” [Trả lời cho câu hỏi: Khai minh là gì?] (1784), ông định nghĩa “sự Khai minh” bằng những thuật ngữ tưong tự. Khai minh được định nghĩa thời danh như “việc thoát khỏi sự không trưởng thành do tự mình chuốc lấy” hay như việc không có khả năng phán đoán mà không có sự hướng dẫn của người khác. Việc tự-giải thoát này có thể đạt được một cách ngoại lệ nổi các cá nhân, nhưng nổi trội hon thì đó là công việc của một quần chúng biết sử dụng lý tính của mình một cách tự do. Quần chúng không phải quy phục sự hướng dẫn của tôn giáo, cũng không quy phục sự hướng dẫn của nhà nước, mà chỉ quy phục sự hướng dẫn của lý tính riêng của mình. Khẩu hiệu của Frederick II “Cứ việc lý luận đi, muốn lý luận bao nhiêu cũng được và về cái gì cũng được, nhưng phải tuân lệnh!” chỉ ra cho Kant thấy rằng ông sống, nếu không phải trong một “thời đại đã được khai minh”, thì cũng trong “một thời đại đang được khai minh”, một thời đại trong đó ít nhất một số trở ngại cho việc sử dụng lý tính một cách tự do, công khai đã được loại bỏ.

Nhiều nhà phê bình đã xem việc Kant sẵn sàng làm cho quan điểm của mình về sự khai minh thích nghi với nhà nước của Frederick như một luận cứ mạnh mẽ để chống lại triết học của ông. Tuy nhiên, trên nhiều phưong diện, lập trường của ông là cực kỳ nhất quán, nhất là vì ông tin rằng sự tự do tư duy đã tạo ra năng lực hành động một cách tự do, trong khi điều ngược lại không tất yếu sẽ như vậy. Ông cũng phân biệt giữa trách nhiệm được thực thi khi ta sử dụng lý tính một cách công khai với trách nhiệm được thực thi khi ta đảm nhận một “chức vụ” riêng, như trách nhiệm của vị giáo sĩ hay của người công chức: đối với Kant, cái trước luôn có sự ưu tiên. Theo cách này, khu vực công của lý tính trở thành Cổ quan có thẩm quyền cao nhất của sự phê phán, cho dù những phán đoán được tuyên bố trong khu vực ấy là không chính thống về mặt tôn giáo, hay “đưa ra sự phê phán thẳng thắn về sự lập pháp hiện hành” (KMLG, tr. 41, tr. 59).

Những lập luận xoay quanh ý nghĩa của sự Khai minh được Kant khoi gợi đã gây lên một tiếng vọng quan yếu trong thế kỷ XX, một tiếng vọng phần lớn được truyền cảm hứng bằng việc Nietzsche mở rộng một cách tàn nhẫn sự phê phán của thời Khai minh đối với chính bản thân lý tính. Lập luận này tiêu biểu trong phê phán của Adorno và Horkheimer về lý tính công cụ [instrumental] trong Dialektik der Aufklärung [Phép biện chứng của Khai minh] (1944), cũng như trong tác phẩm của các triết gia Pháp như Derrida (1967), Foucault (1984) và Lyotard (1983). Trong một cuộc luận chiến có ảnh hưởng, Jürgen Habermas (1984) trong Philosophische Diskurse der Moderne [Diễn ngôn triết học vê Hiện đại] (1985) đã cáo buộc những tác giả ấy là chống lại sự Khai minh. Tuy nhiên, có vẻ chính xác hon nếu mô tả họ như những người đã được khai minh một cách tinh túy, khi khảo sát một cách công khai những hệ quả của việc mở rộng xung lực phê phán của thời Khai minh đối với chính lý tính mang rõ nét tinh thần của Kant.

Hoàng Phú Phương dịch

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

khai minh

[VI] [sự] khai minh

[DE] Aufklärung

[EN]