TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

aufklärung

khai minh

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

giải thích

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thuyết minh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

giảng giải

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cắt nghĩa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

trinh sát

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thám thính

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

do thám

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

điều tra

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

khai hóa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

giáo hóa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

giáo huấn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

làm sạch

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lắng.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

sự giải thích

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự thuyết minh

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự giảng giải

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự làm sáng tỏ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lời giải thích

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

chứng cứ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự giảng giải về quan hệ tình dục

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự khai hóa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự giáo hóa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự giáo huấn

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tuyên truyền

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thời đại khai sáng ở thế kỷ 17

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

18 ở Châu Âu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự trinh sát

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự thám thính

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự do thám

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

aufklärung

elucidation

 
Từ điển Polymer Anh-Đức

enlightenment

 
Từ điển triết học Kant

extension service

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Đức

aufklärung

Aufklärung

 
Metzler Lexikon Philosophie
Từ điển Polymer Anh-Đức
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Beratung

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Beratungsdienst

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Beratungsstelle

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Pháp

aufklärung

service de vulgarisation

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Aufklärung,Beratung,Beratungsdienst,Beratungsstelle /AGRI/

[DE] Aufklärung; Beratung; Beratungsdienst; Beratungsstelle

[EN] extension service

[FR] service de vulgarisation

Từ điển triết học Kant

Khai minh [Đức: Aufklärung; Anh: enlightenment]

Xem thêm: Lương thức/Cảm quan chung, Triết học phê phán, Lịch sử Triết học, Công khai (tính), Lý tính,

Phong trào trí thức châu Âu thế kỷ XVIII được biết như thời Khai minh đã trải qua ba giai đoạn khác nhau ở Đức. Giai đoạn đầu, tức giai đoạn duy lý, được Thomasius khai mào ngay đầu thế kỷ tại trường Đại học Halle, và được Christian Wolff hệ thống hóa. Cả hai đều từ bỏ tiếng Latinh hàn lâm để ủng hộ cho tiếng mẹ đẻ, với việc Wolff cố làm cho những tác phẩm của ông vượt khỏi những khuôn khổ của các trường đại học và các giới chuyên nghiệp. Hệ thống của ông bắt đầu với Logic học, và tiến hành thông qua siêu hình học đến đạo đức học, chính trị học và kinh tế học. Dưới áp lực chính trị từ vị quân chủ nước Phổ là Frederick William I, Wolff bị buộc phải rời nước Phổ năm 1723. Ông sống lưu vong, đó là thời gian mà ông đã viết lại hệ thống của mình, lần này là bằng tiếng Latinh cho độc giả quốc tế là những học giả. Với sự quay trở lại nước Phổ vào dịp Frededrick II lên ngôi năm 1740, Wolff có vẻ giống như một nhà trí thức đã quá thời. Tâm trạng của thời Khai minh đã thay đổi, giờ đây nhấn mạnh vào thuyết hoài nghi và lưong thức (common sense) hon sự thực hành của lý tính trừu tượng. Vào giữa thế kỷ, rất ít triết gia viết về những hệ thống duy lý, sự ưa thích hon được dành cho những bài luận “hoài nghi” hóm hỉnh vốn bắt chước theo những bài luận của Hume. Những trước tác tiền-phê phán của Kant rổi vào trong giai đoạn này của thời Khai minh, điển hình là quyển Beobachtungen über das Gefühl des Schönen und Erhabenen [Các quan sát về cảm xúc cái Đẹp và cái Cao cả] (1764) của ông. Tuy nhiên, trong “thập niên im lặng” 1770, Kant quay trở lại với triết học có hệ thống, chặt chẽ, đứng về phía Wolff để chống lại những người (kể cả bản thân ông thời trẻ) “không có mục đích nào khác hon là muốn vứt bỏ hết các ràng buộc nghiêm ngặt của khoa học” (PPLTTT B 37). Với việc công bố quyển PPLTTT năm 1781, ông đã mở đầu giai đoạn thứ ba của thời Khai minh, tức giai đoạn tìm cách nối kết thuyết hoài nghi phê phán với sự nghiêm xác có hệ thống.

Trong Lời tựa cho ấn bản I cuốn PPLTTT, Kant mô tả thời đại của ông như một thời đại của sự phê phán; phê phán tôn giáo, chính trị và thậm chí cả bản thân lý tính. Sự phê phán đòi hỏi phải đặt những niềm tin tôn giáo, chính trị và trí tuệ vào dưới “sự kiểm nghiệm tự do và công khai” (PPLTTT A 12) để dành việc phán quyết cho “sự nhất trí của cộng đồng những người công dân tự do, trong đó ai ai cũng có thể phát biểu không chút ngần ngại mọi ý kiến thắc mắc và bất đồng của mình, thậm chí có cả quyền phủ quyết nữa” (PPLTTT A 739/ B 767). Trong bài viết “Beanwortung der Frage: Was ist Aufklärung?” [Trả lời cho câu hỏi: Khai minh là gì?] (1784), ông định nghĩa “sự Khai minh” bằng những thuật ngữ tưong tự. Khai minh được định nghĩa thời danh như “việc thoát khỏi sự không trưởng thành do tự mình chuốc lấy” hay như việc không có khả năng phán đoán mà không có sự hướng dẫn của người khác. Việc tự-giải thoát này có thể đạt được một cách ngoại lệ nổi các cá nhân, nhưng nổi trội hon thì đó là công việc của một quần chúng biết sử dụng lý tính của mình một cách tự do. Quần chúng không phải quy phục sự hướng dẫn của tôn giáo, cũng không quy phục sự hướng dẫn của nhà nước, mà chỉ quy phục sự hướng dẫn của lý tính riêng của mình. Khẩu hiệu của Frederick II “Cứ việc lý luận đi, muốn lý luận bao nhiêu cũng được và về cái gì cũng được, nhưng phải tuân lệnh!” chỉ ra cho Kant thấy rằng ông sống, nếu không phải trong một “thời đại đã được khai minh”, thì cũng trong “một thời đại đang được khai minh”, một thời đại trong đó ít nhất một số trở ngại cho việc sử dụng lý tính một cách tự do, công khai đã được loại bỏ.

Nhiều nhà phê bình đã xem việc Kant sẵn sàng làm cho quan điểm của mình về sự khai minh thích nghi với nhà nước của Frederick như một luận cứ mạnh mẽ để chống lại triết học của ông. Tuy nhiên, trên nhiều phưong diện, lập trường của ông là cực kỳ nhất quán, nhất là vì ông tin rằng sự tự do tư duy đã tạo ra năng lực hành động một cách tự do, trong khi điều ngược lại không tất yếu sẽ như vậy. Ông cũng phân biệt giữa trách nhiệm được thực thi khi ta sử dụng lý tính một cách công khai với trách nhiệm được thực thi khi ta đảm nhận một “chức vụ” riêng, như trách nhiệm của vị giáo sĩ hay của người công chức: đối với Kant, cái trước luôn có sự ưu tiên. Theo cách này, khu vực công của lý tính trở thành Cổ quan có thẩm quyền cao nhất của sự phê phán, cho dù những phán đoán được tuyên bố trong khu vực ấy là không chính thống về mặt tôn giáo, hay “đưa ra sự phê phán thẳng thắn về sự lập pháp hiện hành” (KMLG, tr. 41, tr. 59).

Những lập luận xoay quanh ý nghĩa của sự Khai minh được Kant khoi gợi đã gây lên một tiếng vọng quan yếu trong thế kỷ XX, một tiếng vọng phần lớn được truyền cảm hứng bằng việc Nietzsche mở rộng một cách tàn nhẫn sự phê phán của thời Khai minh đối với chính bản thân lý tính. Lập luận này tiêu biểu trong phê phán của Adorno và Horkheimer về lý tính công cụ [instrumental] trong Dialektik der Aufklärung [Phép biện chứng của Khai minh] (1944), cũng như trong tác phẩm của các triết gia Pháp như Derrida (1967), Foucault (1984) và Lyotard (1983). Trong một cuộc luận chiến có ảnh hưởng, Jürgen Habermas (1984) trong Philosophische Diskurse der Moderne [Diễn ngôn triết học vê Hiện đại] (1985) đã cáo buộc những tác giả ấy là chống lại sự Khai minh. Tuy nhiên, có vẻ chính xác hon nếu mô tả họ như những người đã được khai minh một cách tinh túy, khi khảo sát một cách công khai những hệ quả của việc mở rộng xung lực phê phán của thời Khai minh đối với chính lý tính mang rõ nét tinh thần của Kant.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Aufklärung /die; -, -en/

(PI selten) sự giải thích; sự thuyết minh; sự giảng giải; sự làm sáng tỏ (völlige Klärung);

Aufklärung /die; -, -en/

(PL selten) lời giải thích; chứng cứ (Darlegung);

Aufklärung /die; -, -en/

(o Pl ) sự giảng giải về quan hệ tình dục;

Aufklärung /die; -, -en/

sự khai hóa; sự giáo hóa; sự giáo huấn; sự tuyên truyền (Belehrung, Information);

Aufklärung /die; -, -en/

(o Pl ) thời đại khai sáng ở thế kỷ 17; 18 ở Châu Âu;

Aufklärung /die; -, -en/

(Milit ) sự trinh sát; sự thám thính; sự do thám (Erkundung);

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Aufklärung /f =, -en/

1. [sự] giải thích, thuyết minh, giảng giải, cắt nghĩa; 2. (quân sự) trinh sát, thám thính, do thám, điều tra; 3. [sự] khai hóa, giáo hóa, giáo huấn; 4. (hóa) [sự] làm sạch, lắng.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Aufklärung

[VI] [sự] khai minh

[DE] Aufklärung

[EN]

Từ điển Polymer Anh-Đức

elucidation

Aufklärung (Strukturen/Zusammenhänge)

Metzler Lexikon Philosophie

Aufklärung

A. verkörpert in ihrem Kerngedanken den Anspruch auf Mündigkeit des Individuums. Sie fordert geistige wie politische Selbstbestimmung und Selbstgesetzgebung durch die menschliche Vernunft und die Befreiung von allen subjektiv nicht nachvollziehbaren Autoritäten. Die A. kann als Epochenbegriff, als Erkenntnisbegriff und als politisch-ideologiekritischer Begriff gefasst werden.

(1) Als Zeitalter der A. gilt das 18. Jh., in Frankreich auch als »Le siècle philosophique« oder »L’âge de la raison« bezeichnet. Es erstreckt sich ereignisgeschichtlich von der »Glorious Revolution« in England (1688/89) über die amerikanische Unabhängigkeitserklärung und die Verkündung der Menschenrechte 1776 bis zur frz. Revolution im Jahr 1789. Gesellschaftspolitisch eng verwoben mit der A. ist das aufstrebende Bürgertum, die schrittweise Durchsetzung des Handelskapitals, des Manufakturwesens sowie der Marktbeziehungen. Das kulturelle Klima der A. ist geprägt von einer entstehenden literarischen Öffentlichkeit in Salons und Diskussionszirkeln, der zunehmenden Verbreitung von Zeitschriften und moralischer Erbauungsliteratur, der Dominanz von Literaturgattungen wie Roman, Novelle, Lehrfabel und im Theater der Entwicklung des bürgerlichen Trauerspiels. Getragen werden diese publizistischen Aktivitäten von dem Glauben an die Perfektionierung des Menschengeschlechts durch Erziehung im Sinne der Vernunft. Mit der A. einher gehen optimistische Erwartungen an eine lineare Fortschrittsgeschichte in wissenschaftlicher wie sozialer Hinsicht. Vernunft wird in Abkehr von der Tradition des Rationalismus nicht mehr als ein aus festen Prinzipien ableitbares, geschlossenes System betrachtet. Als methodisches Vorbild gilt der analytische Geist der Naturwissenschaften auf experimenteller Basis, wie ihn die Newton’sche Physik begründet hatte. Die immer wieder aufgenommene Lichtmetapher seitens der A. (frz. les lumières) demonstriert die Absage an das bisherige Weltverständnis. War es selbst noch bei Descartes die erleuchtende Kraft Gottes, die der Vernunft zu Wahrheit und Welterkenntnis verhalf, so beginnt sich in der A. die Auffassung durchzusetzen, dass es der vernunftbegabte Mensch ist, der der rationalen Ordnung der Dinge auf den Grund zu gehen vermag, indem er die Welt methodisch durchleuchtet. Die Philosophie der A. beinhaltet eine radikale Absage an sämtliche traditionellen Formen des Dogmatismus. In ihrem Zentrum steht der Begriff der Kritik. Paradebeispiel für das Bildungs- und Wissenschaftsverständnis ist die von d’Alembert und Diderot herausgegebene, vierbändige Encyclopédie ou dictionaire raisonné des sciences, des arts et des métiers von 1751/52, an der an die 200 Autoren vom Handwerker bis zum Literaten gearbeitet haben. Intention des Vorhabens war, eine möglichst globale und systematische Darstellung des zeitgenössischen Standes von Technik und Wissenschaft zu bieten, ohne dabei die Vielfalt der Sichtweisen gewaltsam zu harmonisieren. Das vielschichtige Werk umfasst Artikel zu philosophischen Problemen ebenso wie zu ästhetischen und naturwissenschaftlichen Fragen oder zur Naturgeschichte. Auch der politischen Ökonomie wird (von Rousseau) ein eigenständiges Kapitel gewidmet. Am stärksten gewirkt hat die A. im 18. Jh. in England, Frankreich und Deutschland. Ihre Protagonisten sind in England Locke, Berkeley, Hume, Shaftesbury und die Vertreter der schottischen Moralphilosophie (A. Smith); in Frankreich Diderot, d’Alembert, Montesquieu, Voltaire, Buffon, Condillac, d’Holbach, Helvetius und Rousseau; in Deutschland Chr. Wolff, Lessing, Wieland, M. Mendelssohn und nicht zuletzt Kant.

(2) Auf erkenntnistheoretischem Gebiet wird die A. durch die Revolutionen in den Naturwissenschaften, insbesondere durch Newtons Innovationen in der physikalischen Mechanik geprägt. In Anlehnung an den naiven Glauben des Briten, auf Hypothesen generell verzichten zu können und die Gesetze der Mechanik aus der reinen Analyse der Erscheinungswelt zu rekonstruieren, entwickelt sich in der A. eine sensualistische Erkenntnistheorie. Ideen sind demnach nicht mehr a priori gegeben, sondern rühren aus der Erfahrungswelt. Unterscheidet der von cartesianischer Tradition noch geprägte Locke gemäß res cogitans und res extensa zwischen äußerer (sensation) und innerer Erfahrung (reflection), um der Frage nach dem Ursprung der Ideen nachzugehen, so wird bei Berkeley Wahrgenommenes und Seiendes von vornherein in eins gesetzt (esse est percipi). Condillac versucht allein aus der Logik der ins Bewusstsein aufgenommenen Impressionen den Aufbau der Seele zu rekonstruieren. Bei Hume schließlich werden die Verstandesleistungen des Bewusstseins darauf reduziert, den durch die Sinne erworbenen Stoff zu ordnen. Selbst Kategorien wie die Kausalität sind demnach der Erfahrung entnommen. Wesentliches Merkmal dieser erkenntnistheoretischen Position des Sensualismus, die bei Denkern wie d’Holbach und Helvetius zu einem materialistisch-atheistischen Weltverständnis weitergetrieben werden, ist eine Umkehrung des Erkenntnisweges von der Deduktion aus dogmatischen Glaubenssätzen oder rationalistischen Prinzipien hin zur Induktion aus vermeintlich unmittelbarer Erfahrung. Die Analyse der Mannigfaltigkeit der Gegenstände der Welt, die Zerlegung ihrer Phänomene soll nach dem Vorbild der Naturwissenschaft zur Erkenntnis ihres systematischen Aufbaus führen. Da die Ordnungsprinzipien des Seins aus der Erfahrung gewonnen werden, erhalten sie keinen absoluten Stellenwert mehr, sondern unterliegen der zeitlichen Relativität. Der neuzeitliche Fortschrittsglaube erhofft sich ein schrittweise immer umfangreicheres und detaillierteres Wissen über die Realität. Als Schöpfer der Welt wird Gott nicht notwendig abgesetzt, seine Rolle reduziert sich jedoch vom Herrscher über das Dasein auf die eines »Uhrmachergottes«, einem Wesen, das die Welt nach rationalen Prinzipien gleich einer Maschine erschaffen hat. Ihre Funktionsweise zu durchschauen bietet die Voraussetzung für Manipulation durch technische Eingriffe in ihr Räderwerk. Die A. ist auf erkenntnistheoretischem Gebiet somit die theoretische Konsequenz der Entdeckungen der Naturwissenschaften seit der Renaissance und der damit beginnenden Geschichte der modernen Naturbeherrschung und Naturzerstörung. Aus dieser Perspektive ist die A. immer wieder Objekt einer nachkantischen Vernunftkritik gewesen – in jüngster Zeit vor allem seitens postmoderner Theorieansätze. Die berühmteste Kritik an der A. stammt aus den 40er Jahren dieses Jh. Horkheimer und Adorno operieren in der Dialektik der Aufklärung jedoch mit einem weiten Aufklärungsbegriff, der sich auf jegliches instrumentelle Verhältnis zur Natur bezieht. Die Entzauberung der Welt und die Befreiung von metaphysischen Weltbildern führt, so die Quintessenz ihres Essays, nicht zur Emanzipation des Menschen, sondern zur Hypostasierung der Technik und zur Verdinglichung von Natur wie der sozialen Verhältnisse (»Aufklärung schlägt in Mythologie zurück«, Horkheimer).

(3) Wie die Natur, so wird in der politischen Philosophie der A. auch die Gesellschaft in ihre unhintergehbaren Bestandteile zerlegt. Der Staat als Repräsentant des Gesamtwillens setzt sich aus den Einzelwillen seiner Mitglieder zusammen. Zumeist aus dem Naturrecht werden vertragstheoretische Entwürfe entwickelt, in denen die Einzelinteressen der Bürger die staatliche Instanz konstituieren. Ausgehend von Hobbes entstehen Gesellschaftsmodelle, die jedoch nicht mehr, wie im Leviathan, allein dazu dienen, den allgemeinen Bürgerkrieg abzuwenden, sondern gerade den Missbrauch staatlicher Gewalt gegen die Untertanen einzudämmen. Die Kritik am zeitgenössischen Absolutismus ist unvermeidlich. Montesquieus Lettres persannes beschreiben aus simulierter Außenperspektive die gesellschaftspolitischen Missstände, im Esprit des lois wird eine Teilung staatlicher Gewalt entworfen. Die republikanischen Vertragsmodelle reichen von Lockes Konzeption einer konstitutionellen Monarchie (Voltaire plädiert sogar für einen aufgeklärten Absolutismus im Sinne Friedrichs des Großen) bis zu Rousseaus Idee einer radikalen Basisdemokratie, die, wie er jedoch kulturpessimistisch einschränkt, nur für »ein Volk von Göttern«, nicht aber für Menschen geeignet sei. Zentral für Rousseaus romantisches Gesellschaftsmodell, das ohne naturrechtliche Absicherung auskommt, ist der Begriff der Tugend, über den die Vermittlung des Allgemeinen (volonté générale) mit dem Besonderen (volonté des tous) ermöglicht werden soll. Tugendhafte Menschen setzt seine Konzeption voraus, entsprechen dem Erziehungsideal der A. (vgl. Rousseaus Emile), eine substantialistische Auffassung, die in der frz. Revolution während der Herrschaft Robbespierres verhängnisvolle Folgen haben wird.

Doch die gesellschaftstheoretischen Annahmen der A. transportieren gleichzeitig ein liberales Menschenbild. Der Humanismus der A. erfordert neben individueller Selbstbestimmung die Toleranz gegen Andersdenkende und Andersgläubige (vgl. Voltaires Traîté sur la tolerance oder Lessings Nathan der Weise). Ihren materiellen Niederschlag finden diese Ideen in der amerikanischen Menschenrechtserklärung. Entscheidend ist das neue Verständnis von individueller Freiheit und persönlicher Verantwortung. Mit Voltaire kommt der erste moderne Intellektuelle ins Spiel, der, wie in der »Affaire Calas«, durch öffentliche Kritik für die Rechte anderer eintritt. Kant definiert A. als den »Ausgang des Menschen aus seiner selbstverschuldeten Unmündigkeit« und fordert den Mut, sich seines »eigenen Verstandes zu bedienen«. Die Autonomie des Individuums bleibt bis zum heutigen Tag die Kernforderung der A. Bei Marx wird sie noch als bürgerliche Ideologie der kapitalistischen Konkurrenzgesellschaft kritisiert, die erst nach deren Aufhebung im Sozialismus ihre wahre Erfüllung finden wird. Habermas sieht im Erbe der A. die Forderung, die in der Moderne ausdifferenzierten Bereiche der objektivierenden Wissenschaften, der universalistischen Grundlagen von Moral und Recht sowie der autonom gewordenen Kunst an die Lebenswelt heranzuführen, ohne sie in ihrem Eigenrecht zu beeinträchtigen. Für Foucault verkörpert die A. eine Haltung: der Wille, sich von keinem Macht-Wissen-Komplex unhinterfragt regieren zu lassen.

MR

LIT:

  • E. Cassirer: Die Philosophie der Aufklrung. Tbingen 1932
  • M. Foucault: Qu est-ce que les Lumires? In: Ders.: Dits et crits. Thome IV. Paris 1994. S. 562578 (dt.: Was ist Aufklrung? In.: E. Erdmann u.a. (Hg.): Ethos der Moderne. Frankfurt/New York 1990. S. 3554)
  • J. Habermas: Die Moderne ein unvollendetes Projekt. In: Ders.: Kleine Politische Schriften (I-IV). Frankfurt 1981. S. 444464
  • M. Horkheimer/Th. W. Adorno: Dialektik der Aufklrung. In: Horkheimer: Ges. Schriften. Bd. 5. Frankfurt 1987
  • I. Kant: Beantwortung der Frage: Was ist Aufklrung? (1784)
  • Neuzeit. In: E. Braun u.a.: Politische Philosophie. Reinbek 1984. S. 107245
  • K. Vorlnder: Philosophie der Neuzeit. Die Aufklrung (Geschichte der Philosophie V). Hamburg 1955.