TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

erkenntnis

Nhận thức

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

Kiến thức

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

năng lực nhận thức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

khả năng tri giác 2

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

bản án

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

phán quyết

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

erkenntnis

cognition

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

knowledge

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

insight

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

awareness

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Đức

erkenntnis

Erkenntnis

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Pháp

erkenntnis

Connaissances

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

reconnaissance

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Chuyên ngành CN Sinh Học (nnt)

Erkenntnis, dass Hefen für Gärungen verantwortlich sind

Hiểu biết rằng nấm men đóng vai trò quyết định cho quá trình lên men

Die Erkenntnis, dass die Sicherung von Gesundheit und Wohlbefinden des Menschen den Schutz und die Sicherung seiner natürlichen Umwelt als Lebensgrundlage voraussetzt, hat sich als Umweltbewusstsein bei vielen Menschen durchgesetzt und schlägt sich vielfach auch im praktischen Handeln nieder.

Sự bảo vệ, gìn giữ môi trường tự nhiên như nền tảng của sự sống là điều kiện tiên quyết cho việc bảo tồn sức khỏe và trạng thái khỏe mạnh của con người; nhận thức ấy đã trở thành ý thức môi trường của nhiều người và nhiều khi cũng được thể hiện bằng hành động thực tiễn.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Erkenntnis /die; -, -se/

(o PL) năng lực nhận thức; khả năng tri giác 2;

Erkenntnis /das; -ses, -se (österr., sonst veraltet)/

bản án; phán quyết (Gerichts bescheid, Urteil);

Từ điển triết học Kant

Nhận thức [Đức: Erkenntnis; Anh: cognition]

Xem thêm: Khái niệm, Quan năng, Cho-là-đúng (sự), Trực quan, Tri thức, Tri giác, Biểu tượng, Tư duy,

Những sự phân biệt của Kant giữa nhận thức (Erkenntnis), tri thức hay cái biết (Wissen) và sự suy tưởng (Denken) không được các dịch giả chú ý một cách nhất quán - đôi khi cũng không được chính Kant chú ý đến. Thậm chí Kemp Smith trong bản dịch PPLTTT đầy ảnh hưởng của ông lược bỏ có hệ thống sự phân biệt giữa tri thức và nhận thức bằng cách dịch Erkenntnis là “tri thức” (“knowledge”). Trong loại hình học về các biểu tượng trong PPTTTT A 320/B 377, Kant định nghĩa nhận thức là “tri giác khách quan” hoặc “biểu tượng khách quan đi kèm với ý thức”. Có hai loại nhận thức, đó là nhận thức trực quan và nhận thức khái niệm, tương ứng với hai nguồn suối của nhận thức trong cảm năng và giác tính (A 291/ B 351). Nhận thức - đôi khi có những ngoại lệ - được phân biệt với cả tri thức lẫn sự suy tưởng. Tri thức biểu thị sự đầy đủ về mặt chủ quan và về mặt khách quan của một phán đoán, và vì thế là một phẩm chất của sự suy tưởng. Sự suy tưởng, đến lượt nó, chính là sự hợp nhất của những biểu tượng trong một ý thức, hay phán đoán. Trong khi các phạm trù của sự suy tưởng “không hề bị các điều kiện của trực quan cảm tính hạn chê”, thì nhận thức “những gì ta suy tưởng, tức để xác định đối tượng thì cần có trực quan” (PPTTTT B 166). Vì như Kant đã phản tư, “để nhận thức một đối tượng, điều đòi hỏi là tôi có thể chứng minh được khả thể của nó (hoặc bằng tính thực tại của nó do kinh nghiệm xác nhận, hoặc một cách tiên nghiệm bằng lý tính). Còn suy tưởng về một đối tượng, tôi có thể suy tưởng cái gì tôi muốn, miễn là, không tự mâu thuẫn với chính mình” (PPTTTT B 26). Nhận thức về cái mà ta suy tưởng không chỉ đòi hỏi rằng những nhận thức trong hình thái của những khái niệm và những trực quan phải có mặt, mà còn đòi hỏi rằng sự phán đoán, vốn là cái hợp nhất chúng, phải thỏa mãn nguyên tắc mâu thuẫn: đó là những điều kiện mà ta gặp trong trường hợp những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm.

Hoàng Phong Tuấn dịch

Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Erkenntnis

reconnaissance

Erkenntnis

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Erkenntnis

[VI] Nhận thức

[DE] Erkenntnis

[EN] cognition

Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Erkenntnis

[DE] Erkenntnis

[EN] knowledge, insight, awareness

[FR] Connaissances

[VI] Kiến thức

Metzler Lexikon Philosophie

Erkenntnis

Die Bedeutung des Begriffs kann man über die Analyse des Begriffs »erkennen« ermitteln. »Erkennen« wird in der Regel als Erwerb von Wissen aufgefasst. Immer wenn wir über ein Wissen verfügen, haben wir auch eine E. gleichen Inhalts. Deshalb wird der Erkenntnisbegriff durch eine Analyse des Wissensbegriffs verdeutlicht. Damit man davon sprechen kann, dass eine Person A etwas weiß, müssen die folgenden Bedingungen erfüllt sein: (1) Wenn A sagt, sie wisse, dass ihr Name Müller sei, dann kann es nicht der Fall sein, dass sie dies wirklich weiß und dass sie Meier heißt. Wenn eine Überzeugung ein Wissen ist, muss die Überzeugung wahr sein, sonst wäre sie kein Wissen, sondern ein Irrtum. (2) Wenn A eine Meinung p äußert, die zwar wahr ist, von der A selbst aber nicht glaubt, dass sie wahr ist, kann man nicht von Wissen sprechen. A äußert zwar einen wahren Satz, aber dass A selbst p weiß, wird man A absprechen. A muss meinen, dass p, d.h. Wissen ist nach (1) und (2) eine wahre Meinung. (3) A könnte allerdings nur zufällig geraten haben, dass p wahr ist. In diesem Falle würde man A wiederum kein Wissen von p zuschreiben. Es muss zusätzlich auch noch Gründe geben, um zu meinen, dass p. Wissen ist demnach eine wahre begründete Meinung (so auch Platon im Theaitetos). (4) Dass es derartige Gründe gibt, reicht aber immer noch nicht hin, um von Wissen zu sprechen. Es könnte sein, dass p begründet ist, aber A die relevanten Gründe gar nicht kennt. In diesem Fall wird man A immer noch kein Wissen von p zusprechen. A muss die Gründe für p selbst haben, also kennen (Dieser Punkt wird z.B. vom »epistemischen Externalismus« bestritten). (5) E. Gettier hat darauf hingewiesen, dass zudem angenommen werden muss, dass A nicht nur irgendwelche, sondern die richtigen Gründe für p haben muss, um p zu wissen. Richtige Gründe sind dabei die, aus denen p sich objektiv logisch ableiten lässt. Weitere semantische Spezifizierungen sind möglich, jedoch ist festzuhalten, dass wir erkennen, dass p, wenn uns ein Wissen von p aufgrund von Bestimmungen der aufgeführten Art zugeschrieben werden kann. Die angeführte Semantik von E. beinhaltet mindestens zwei Probleme: (a) Selbst im philosophischen Sprachgebrauch gibt es die Redewendung von falscher E. usw., die zur »Contradictio in adjecto« wird, wenn wir den skizzierten Erkenntnisbegriff (zu streng) benutzen; (b) Die Bedingungen (1) – (5) können in einen Regress führen. Gründe für Meinungen sind selbst nur begründet, wenn sie aus anderen Gründen abgeleitet werden können usw. Falls eine Meinung nur dann eine E. sein soll, wenn die fundierenden Gründe selbst fundiert sind, endet man in einem Regress. Das zeigt, dass obige Überlegungen nur einen problematisierenden Einstieg in die semantische Debatte geben.

Traditionell wird E. oft als eine adäquate »Widerspiegelung« der Objektwelt im Subjekt verstanden. Das weist darauf hin, dass Erkennen auf Erkenntnisgegenstände ausgerichtet ist, d.h. es hat intentionalen Charakter. Durch die Gegenstände (die nicht notwendig realistisch interpretiert werden müssen) erhält das Subjekt bestimmte Daten. Das Erkennen lässt sich häufig als das Erstellen einer richtigen Ordnung dieser Daten bzw. Informationen beschreiben. Diese richtige Ordnung wird durch zwei elementare Erkenntnisfähigkeiten ermöglicht. Erstens besteht die Möglichkeit, sinnliche Daten voneinander zu unterscheiden, es kann eine sensorische Diskriminierung stattfinden. Diese erlaubt es Z.B., Gestalten zu identifizieren. Im (manchmal unbewussten) Diskriminierungsvorgang wird ein Datum aus dem Kontinuum von Daten, in dem es in Erscheinung tritt, separiert und in neue Zusammenhänge (z.B. erlernte Schemata von Gestalten) eingeordnet. Zweitens können die auf diese Weise geordneten sinnlichen Daten klassifiziert, d.h. unter allgemeine Begriffe gebracht werden. Einzelne Daten werden dabei in eine Klasse integriert und als unter eine die Klasse konstituierende Eigenschaft fallend erkannt. Das einzelne Datum wird in ein (im Idealfall) kohärentes Ganzes eingeordnet, wobei dieser Vorgang dadurch ermöglicht wird, dass man die bereits bekannte begriffskonstitutive Eigenschaft im singulären Datum wiedererkennt. Insofern ist Erkennen auf dieser Ebene immer schon ein Wiedererkennen. Erkennen ist als ein Separieren und ein darauf folgendes Synthetisieren, als ein Zerstören einer natürlichen und als gleichzeitiges Errichten einer z.B. semantischen Ordnung zu charakterisieren. Sonderfälle sind: (1) Wenn man z.B. E. über das Bankwesen gewinnt, entfällt die sinnliche Komponente, und das Erkennen wird allein zum Erstellen einer logisch-semantischen Ordnung. (2) Viele Tiere hingegen verfügen nicht über Begriffe, d.h. sie erstellen lediglich eine Ordnung von Wahrnehmungen. Ob hier noch von E. gesprochen werden darf, ist umstritten. (3) Es gibt auch eine E. subjektinterner Zustände. – Die benannten zwei Erkenntnisfähigkeiten weisen auf zwei mögliche Quellen der E. hin. Geht man davon aus, dass alle E. aus Sinneserfahrung ableitbar ist, vertritt man einen Empirismus bzw. Sensualismus. Nimmt man hingegen an, alle E. stamme aus dem Verstand, d.h. aus Begriffen und aus den aus ihnen gebildeten Urteilen, so vertritt man einen Rationalismus. Kant versuchte, beide Ansätze zu vereinen; in ihrer »Reinform« werden sie kaum noch vertreten. Die Philosophie lässt sich als ein Prozess des stetigen Erkenntniszuwachses beschreiben. Ihre Aufgabe ist es, E.se von Irrtümern zu unterscheiden. Diese Aufgabe wird in erster Linie durch die Erkenntnistheorie ermöglicht. Diese Disziplin ist darum bemüht, durch eine Problematisierung der Begründungen von Aussagen, Mittel bereitzustellen, um wahre von falschen Aussagen zu trennen. Allerdings besteht ihre Aufgabe auch darin, den Ursprung von E. zu verdeutlichen. Nur so können wir unsere E.se und ihre Geltung auch verstehen und müssen sie nicht als Zufall betrachten.

BG

LIT:

  • P. Bieri (Hg.): Analytische Philosophie der Erkenntnis. Frankfurt 1987
  • F. v. Kutschera: Grundfragen der Erkenntnistheorie. Berlin/New York 1981.