TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

transzendental

siêu nghiệm

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

siêu nghiệm /siêu nghiệm thể

 
Từ điển triết học Kant

siêu nghiệm thể

 
Từ điển triết học Kant

siêu việt

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tiên nghiệm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

transzendental

transcendental

 
Từ điển triết học Kant

Đức

transzendental

transzendental

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Metzler Lexikon Philosophie

Transzendentalphilosophie

 
Metzler Lexikon Philosophie
Metzler Lexikon Philosophie

Transzendental,Transzendentalphilosophie

Bezeichnung für die von Kant ausgehende philosophische Richtung. Im Unterschied zu transzendent bezieht sich t. nicht auf Seiendes jenseits des Empirischen, sondern auf die Bedingungen, die erfüllt sein müssen, damit Erkenntnis von Seiendem – welcher Art auch immer – möglich ist (KrV A 11–12/B 25). Diejenige Reflexion ist t., welche die notwendigen, durch das Subjekt a priori erfüllten Bedingungen für etwas angibt. Indem Kant vor eine gegenstandsbezogene Philosophie eine Reflexion auf die Bedingungen der Möglichkeit für Erkenntnis bzw. Erfahrung setzt, vollzieht er seines Erachtens eine Kopernikanische Wende in der Philosophie. Seine Theorie wird aus diesem Grund auch als Kritizismus sowie als transzendentaler Idealismus bezeichnet. Erfahrung ist dabei nach Kant gesetzmäßig strukturiert; die Gesetze basieren auf synthetischen Urteilen, die a priori gültig sind. Oberste Bedingung für Erfahrung in diesem Sinne ist nach Kant die t.e Einheit der Apperzeption (des Selbstbewusstseins); alle Bewusstseinsgehalte müssen auf diese bezogen werden können (KrV B 131–32). Von dieser ursprünglichen Einheit des Selbstbewusstseins sind auch die Anschauungsformen Raum und Zeit abhängig (KrV, Anm. zu B 161); diese sind die notwendige Bedingung dafür, dass Sinnesdaten gegeben werden können. Von der Beschreibung der t.en Einheit der Apperzeption aus versucht Kant, Kategorien und Grundsätze zu deduzieren (wie den Satz der Erhaltung der Substanz und das Prinzip der Kausalität). Die Kategorien und Grundsätze sind die notwendigen Bedingungen dafür, Sinnesdaten auf objektiv gültige Urteile über Gegenstände hin überschreiten zu können. Damit sind sie nach Kant zugleich die Konstitutionsbedingungen für die Gegenstände der Erfahrung (KrV A 158/B197). In seiner praktischen Philosophie geht Kant analog vor: Vor inhaltlichen Aussagen über das, was gut ist, steht die Reflexion auf die Bedingungen der Möglichkeit für gutes Handeln; diese Bedingungen sind nach ihm Willensfreiheit und das Sittengesetz (KpV Akad.-Ausg. V, 62–63). – Kants T. wird von Fichte dahingehend radikalisiert, dass das erkennende Subjekt sich selbst setzt und die Gegenstände seiner Erkenntnis auch ihrem Sein nach hervorbringt. Nach dem Dt. Idealismus erreicht die T. in Husserls Phänomenologie und im Neukantianismus zu Beginn des 20. Jh. einen neuen Höhepunkt. Wichtige Vertreter einer an Kant orientierten T. sind nach dem 2. Weltkrieg in Deutschland W. Cramer, H. Wagner, D. Henrich und G. Prauss. – K.-O. Apel und im Anschluss an ihn W. Kuhlmann entwickeln eine Transformation der T., die den Linguistic turn der Philosophie zu Beginn dieses Jahrhunderts aufnimmt (Transzendentalpragmatik). Zentral für diesen Ansatz ist die Diskussion um t.e Argumente. Das sind Argumente, die anzugeben beanspruchen, was der Fall sein muss, damit etwas, das nur schwer bestritten werden kann, der Fall sein kann. Die stärksten t.en Argumente sind strikt reflexiv: Sie sollen Bedingungen der Möglichkeit dafür angeben, überhaupt etwas bestreiten oder bezweifeln zu können. Die Grundfigur eines solchen Arguments ist Descartes’ »cogito, ergo sum« (Cartesianismus).

ME

LIT:

  • K.-O. Apel: Transformation der Philosophie. 2 Bde. Frankfurt 1973
  • W. Cramer: Grundlegung einer Theorie des Geistes. Frankfurt 31975
  • D. Henrich: Selbstbewutsein. Kritische Einleitung in eine Theorie. In: R. Bubner/K. Cramer/R. Wiehl (Hg.): Hermeneutik und Dialektik. Bd. 1. Tbingen 1970. S. 257284
  • W. Kuhlmann: Reflexive Letztbegrndung. Freiburg/Mnchen 1985
  • M. Niquet: Transzendentale Argumente. Frankfurt 1991
  • G. Prauss: Die Welt und wir. Bd. I/1 u. 2. Stuttgart 1990 ff
  • H. Wagner: Philosophie und Reflexion. Mnchen/Basel 1959.
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

transzendental /[transtsendcn'tad] (Adj.) (Philos.)/

siêu nghiệm; siêu việt (ưans- zendent);

transzendental /[transtsendcn'tad] (Adj.) (Philos.)/

tiên nghiệm;

Từ điển triết học Kant

Siêu nghiệm (tính, cái)/Siêu nghiệm thể [Đức: transzendental; Anh: transcendental]

Xem thêm: Siêu việt,

Trong triết học trung cổ, những siêu nghiệm thể [Đức: Transzendentalien; Anh: transcendentals] biểu thị những thuộc tính của hữu thể vượt khỏi phạm vi phạm trù [extra-categorical] như: nhất tính, chân tính, thiện tính, mỹ tính (và, trong một số sự phân loại, vật tính và sự tính) [xem thêm: PPLTTT, Chương I, Phần 2A, tiết 3, mục §12, BVNS dịch và chú giải, NXB Văn học (2004), tr. 251]. Đối với triết học Kant, một dấu vết của cách dùng theo nghĩa này vẫn tồn tại trong việc Kant sử dụng thuật ngữ siêu nghiệm như một hình thức nhận thức, nhưng không phải về các đối tượng tự thân mà của những phương thức nhờ đó chúng ta có thể biết về các đối tượng đó, tức là những điều kiện của kinh nghiệm khả hữu. Vì thế, ông “gọi mọi nhận thức là siêu nghiệm, khi chúng không chỉ nghiên cứu các đối tượng mà nghiên cứu chung về phương cách nhận thức của ta về các đối tượng đó, trong chừng mực phương cách nhận thức ấy có thể có được một cách tiên nghiệm” (PPLTTT A 12, [BVNS, tr. 105 (B 25)]). Hệ thống các khái niệm cấu tạo nên tri thức tiên nghiệm có thể được gọi là triết học siêu nghiệm, vì thế phê phán lý tính thuần túy được mô tả một cách đa dạng như: một môn học dự bị, một bộ chuẩn tắc hay một kiến trúc học [của lý tính thuần túy]. Thuật ngữ siêu nghiệm còn được sử dụng khắp nơi để định tính chất cho các danh từ như: logic học, cảm năng học, sự thống nhất của thông giác, các quan năng, ảo tưởng; trong mỗi trường hợp, nó báo hiệu rằng danh từ mà nó định tính chất sẽ được xem xét trong quan hệ với các điều kiện của khả thể.

Nghĩa chính xác của thuật ngữ siêu nghiệm thay đổi trong suốt quyển PPLTTT, nhưng những thông số ngữ nghĩa của nó có thể được chỉ rõ ra bằng cách cho thấy những cách thức trong đó Kant phân biệt nó với những cái đối lập của nó. Cái siêu nghiệm được phân biệt với cái thường nghiệm, và được liên kết với cái tiên nghiệm, trong chừng mực cái tiên nghiệm bao hàm một sự quy chiếu đến phương cách nhận thức; nó “chỉ ra nhận thức đó khi liên quan đến khả thể tiên nghiệm của nhận thức, hay sự sử dụng tiên nghiệm của nhận thức đó” (PPLTTT A 56/B 86). Như thế, sự phân biệt siêu nghiệm và thường nghiệm bao hàm sự siêu-phê phán về nhận thức và về các nguồn gốc tiên nghiệm của nó. Kant xem việc nghiên cứu tâm lý học về nhận thức như một nhánh của nhận thức thường nghiệm, và vì thế ông lại phân biệt nó với nhận thức siêu nghiệm (A 801/B 829). Cái siêu nghiệm cũng được phân biệt với cái siêu hình học và cái logic. Chẳng hạn, một sự khảo sát [xem thêm: “Tôi hiểu “khảo sát” (Erörterung, expositio) là sự hình dung một cách minh bạch (dù chưa thật cặn kẽ) về những gì thuộc về một khái niệm...” (PPLTTT, BVNS, tr. 144) - ND] siêu hình học về không gian là một khảo sát trình bày những gì thuộc về khái niệm “không gian” như được mang lại một cách tiên nghiệm (A 23/B 38), trong khi một sự khảo sát siêu nghiệm lại giải thích khái niệm ấy “như một nguyên tắc từ đó có thể nhận ra được khả thể của nhận thức tổng hợp tiên nghiệm khác” (B 40). Một sự phân biệt siêu nghiệm giữa cái khả giác và cái khả niệm khác với một sự phân biệt logic học - tức nó phân biệt “hình thức của chúng hoặc là rõ ràng hoặc là lẫn lộn” - ở chỗ nó bàn về “nguồn gốc và nội dung” (A 44/B 62). Sau cùng, Kant phân biệt giữa siêu nghiệm và siêu việt (transcendent), bằng cách đối chiếu các nguyên tắc siêu việt, tức các nguyên tắc “khuyến khích ta kéo đổ hết các cột mốc ranh giới ấy để vưon đến mảnh đất hoàn toàn mới mẻ, không thừa nhận một đường giới tuyến nào”, với một “sự lạm dụng siêu nghiệm đối với các phạm trù, tức mở rộng sự áp dụng của chúng vượt khỏi những giới hạn của kinh nghiệm khả hữu, và “điều này chỉ đon thuần là một sai lầm của quan năng phán đoán” (A 296/B 352).

Hoàng Phú Phương dịch