Chủ thể siêu nghiệm [Đức: transzendentales Subjekt; Anh: transcendental subject]
-> > Thông giác, Tôi, Chủ thể, Đối tượng siêu nghiệm, Chủ thể,
Đối tượng siêu nghiệm và chủ thể siêu nghiệm [ Đức: Transzendentales Objekt und Subjekt; Anh: transcendental object and subject]
Xem thêm: Trực quan, Đa tạp, Noumenon, Đối tượng, Thụ nhận (tính), Chủ thể, Vật tự thân, Thống nhất (tính, sự),
Đối tượng siêu nghiệm là một hệ quả lý thuyết của việc Kant hạn chế trực quan của con người ở năng lực thụ nhận những hiện tượng và của việc ông tin rằng không thể có “hiện tượng nào mà không có cái gì đó xuất hiện ra” (PPLTTT B 27).
Đối tượng siêu nghiệm được định đề hóa như cái “xuất hiện ra” hay cái đối ứng với tính thụ nhận. Khi bàn về đối tượng siêu nghiệm, Kant treo lửng những sự phân biệt thông thường của ông giữa Objekt và Gegenstand [Xem mục từ: Đối tượng], và trong nhiều trường hợp, thậm chí ông còn sử dụng [khái niệm] “sự vật” (Ding). Đây là một hệ quả của sự bất khả tri về đối tượng siêu nghiệm, một đặc tính mà nó có chung với Noumenon [sự vật của giác tính] và với vật tự thân; [vì thế], giống như Noumenon và vật tự thân, đối tượng siêu nghiệm có thể được suy tưởng theo nguyên tắc mâu thuẫn, nhưng không thể được nhận thức như một đối tượng của kinh nghiệm. Thực tế, trong một số trường hợp, chủ yếu trong ấn bản đầu tiên của PPLTTT, Kant sử dụng các thuật ngữ Noumenon và vật tự thân như những từ đồng nghĩa với đối tượng siêu nghiệm (A 366, A 385, A 614/B 642). Nhưng trong khi cả ba chia sẻ đặc tính chung là có thể suy tưởng được [khả niệm] chứ không phải là các đối tượng của kinh nghiệm, thì đối tượng siêu nghiệm được dùng theo nghĩa đặc thù là cái đối ứng khả niệm của các hiện tượng cảm tính. Kant miễn cưỡng thừa nhận rằng chúng ta có thể gọi “nguyên nhân thuần túy khả niệm của các hiện tượng nói chung là đối tượng siêu nghiệm”, rồi xác định thêm: “nhưng chỉ để ta có cái gì đó tưong ứng với cảm năng vốn được xét như là một tính thụ nhận” (A 494/B 522). Như ông đã sớm chỉ ra trong PPLTTT, nó chỉ đon thuần là một chức năng của việc đòi hỏi rằng các hiện tượng với tư cách là các biểu tượng phải đại diện cho cái gì đó, nên gọi cái đó là “cái không-thường nghiệm, tức đối tượng siêu nghiệm = X” (A 109).
Trong một số trường hợp trong PPTTTT, Kant dường như vượt khỏi những đòi hỏi mang tính chức năng đon thuần là phải xem đối tượng siêu nghiệm như một cái đối ứng của các hiện tượng. Đây là những khoảnh khắc mà tại đó đối tượng siêu nghiệm trải qua sự biến hình để trở thành một chủ thể siêu nghiệm. Sự nối kết mang tính chuyển tiếp này là sự thống nhất thể hiện qua một cái đa tạp của trực quan. Ở phần A 613/B 641, Kant đi từ việc mô tả đối tượng siêu nghiệm như [cái] “làm nền tảng cho mọi hiện tượng”, và vì thế khi ông nói rằng đây là lý do “tại sao cảm năng của ta tuân theo những điều kiện tối cao này chứ không phải là những điều kiện tối cao khác”, thì điều này “đối với chúng ta là không thể tìm hiểu được”. Điều này có thể được đặt kề bên nhận xét trước đây của ông rằng đối tượng siêu nghiệm “chỉ nói lên ý tưởng về một đối tượng nói chung, dựa theo các phương cách khác nhau [của trực quan]” (A 247/B 304). Với nhận xét ấy, ông không muốn nói rằng đối tượng siêu nghiệm quy định phương cách trực quan không gian-thời gian của ta, mà có ý nói rằng nó mang lại “sự thống nhất của tư tưởng về một cái đa tạp nói chung”, không xét đến phương cách trực quan. Tuy nhiên, sự thống nhất này sau đó được cho là đặc tính của “chủ thể siêu nghiệm” hay “một cái gì đó nói chung” được biểu đạt bằng thuật ngữ “cái Tôi”, tức cái tạo thành phương tiện chuyên chở cho mọi kinh nghiệm. Nó mang lại điều kiện nền tảng nhất cho kinh nghiệm để những cái đa tạp của trực quan có thể được thống nhất.
Hoàng Phú Phương dịch