TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

bedeutung

Ý nghĩa

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nghĩa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ý

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nội dung

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ý nghĩa của từ ngữ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tầm quan trọng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự chú ý

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự quan tâm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

uy tín

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

giá trị

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
~ bedeutung

ý nghĩa cơ bản

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ý nghĩa chủ yéu nhất

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Anh

bedeutung

significance

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

meaning

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học HABERMAS

Đức

bedeutung

Bedeutung

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học HABERMAS
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Bereich

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Bezeichnung

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Größe

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Wert

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Tragweite

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
~ bedeutung

~ bedeutung

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Pháp

bedeutung

sens

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

importance

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

valeur

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

portée

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

die Bedeutung eines Traumes erklären

giải thích ỷ nghĩa của một giấc mơ

die Fabel hat eine tiefere Bedeutung

câu chuyện ngụ ngôn hàm chứa ý nghĩa sâu xa.

die eigentliche Bedeu tung

ỷ nghĩa thật sự

die Bedeutung des Wortes hat sich gewandelt

ỷư2 này đã thay đổi

“Geist" hat mehrere Bedeutungen

từ “Geist” có nhiều nghĩa khác nhau.

etw. ist von praktischer Bedeu tung

điều gl có ý nghĩa thực tế

nichts von Bedeutung

không có gì đặc biệt, không đáng quan tâm.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

óhne Bedeutung

không có ý nghĩa, không nghĩa lý gì, ít quan trọng; -

Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Bedeutung,Tragweite /ENG-MECHANICAL/

[DE] Bedeutung; Tragweite

[EN] significance

[FR] portée

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Bedeutung /die; -, -en/

(o PI ) nghĩa; ý nghĩa (Sinn);

die Bedeutung eines Traumes erklären : giải thích ỷ nghĩa của một giấc mơ die Fabel hat eine tiefere Bedeutung : câu chuyện ngụ ngôn hàm chứa ý nghĩa sâu xa.

Bedeutung /die; -, -en/

nội dung; ý nghĩa của từ ngữ (Inhalt, Wortinhalt);

die eigentliche Bedeu tung : ỷ nghĩa thật sự die Bedeutung des Wortes hat sich gewandelt : ỷư2 này đã thay đổi “Geist" hat mehrere Bedeutungen : từ “Geist” có nhiều nghĩa khác nhau.

Bedeutung /die; -, -en/

(o Pl ) tầm quan trọng; sự chú ý; sự quan tâm (Gewicht, Tragweite, Belang);

etw. ist von praktischer Bedeu tung : điều gl có ý nghĩa thực tế nichts von Bedeutung : không có gì đặc biệt, không đáng quan tâm.

Bedeutung /die; -, -en/

(o Pl ) uy tín; giá trị (Geltung, Ansehen, Wert);

Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Bedeutung

sens

Bedeutung

Bedeutung,Bereich,Bezeichnung

importance

Bedeutung, Bereich, Bezeichnung

Bedeutung,Größe,Wert

valeur

Bedeutung, Größe, Wert

Từ điển triết học HABERMAS

Ý nghĩa [Đức: Bedeutung; Anh: Meaning]

Trong các tác phẩm sơ kỳ, Habermas tiếp cận ý nghĩa qua thông diễn học/hermeneutics, tức ý nghĩa được hiểu như là đặc tính của các hành động của con người (bao gồm nói và viết), và các đồ tạo tác của con người (chẳng hạn như sách vở, tác phẩm nghệ thuật và các công trình xây dựng). Nhiệm vụ của nhà thông diễn học, với tư cách người nghiên cứu quá trình diễn giải, là phải hiểu làm cách nào chúng ta có thể rút ra ý nghĩa từ cái prima facie (thoạt nhìn) chỉ là vật chất (đó là các chuyển động có tính vật lý của cơ thể, những tiếng ồn tạo ra khi chúng ta nói, những dấu hiệu chúng ta tạo ra trên giấy khi viết, hay những đồ vật mà các nghệ sĩ, người thợ xây, người thợ máy tạo nên) (Habermas, 1971a, tr. 140–186; 1980; 1988b, tr. 143–170). Mặc dù cách tiếp cận thông diễn đối với ý nghĩa giải thích nhiều về các quá trình diễn giải và thông hiểu vốn tiếp diễn khi con người hiểu được từng hành động của nhau, nhưng nó khiến cho khái niệm ý nghĩa vẫn còn là thứ mơ hồ. Như các ví dụ ở trên cho thấy, nó bao gồm một loạt vô số hiện tượng, từ cử chỉ lăng mạ mà tôi thực hiện bằng bàn tay mình, cho đến những những sắc thái tinh tế của vần điệu và biểu đạt mà tôi đặt vào bài thơ, đến những chuyển động của toàn thể quân đội hay thậm chí dân chúng trong cuộc chinh phục và chiếm đóng lãnh thổ. Trong tác phẩm hậu kỳ về thuyết dụng hành phổ quát/universal pragmatics và lý thuyết về hành động giao tiếp/communicative action, Habermas chuyển nguồn cảm hứng sang triết học phân tích/analytic philosophy, để cung cấp cách giải thích chú trọng hơn vào khái niệm ý nghĩa. Chính xác hơn, Habermas quan tâm tới việc nhận diện các điều kiện theo đó con người có năng lực thấy ngôn ngữ và hành động của những người khác là có ý nghĩa (Habermas, 1979a; 1999a).

Hai cách tiếp cận tổng quát đối với vấn đề ý nghĩa có thể được nhận diện trong triết học phân tích. Cái được biết đến như là cách tiếp cận ngữ nghĩa học hình thức là cách tập trung vào các câu, và hỏi làm thế nào câu có thể có ý nghĩa khi không xét đến người nói hay viết ra câu đó, cũng không xét đến bối cảnh câu được sử dụng. Chẳng hạn, điều gì sẽ làm cho câu ‘Habermas là một triết gia Đức’ có nghĩa? Trước tiên, hãy để ý rằng đây không phải là vấn đề về chân lý/truth của câu. ‘Habermas là triết gia Pháp’ cũng có ý nghĩa như ‘Habermas là triết gia Đức’, mặc dù chỉ một trong hai là đúng. Thứ hai, giả định rằng mối quan tâm của triết gia là đối với các câu này mà không xét đến ai nói ra chúng, chúng muốn nói gì hay chúng xảy ra ở đâu; vấn đề là phải tìm ra các điều kiện tổng quát cần có để bất cứ câu nào, trong bất kỳ ngữ cảnh nào, đều có ý nghĩa với bất kỳ ai nghe hay đọc nó. Cách tiếp cận này đối với ý nghĩa có xu hướng tập trung vào các câu khẳng định điều gì đó về thế giới, và hiểu các điều kiện làm cho các câu đó có ý nghĩa xét theo phạm vi mà cử tọa hoặc phải tưởng tượng về thế giới được mô tả bởi câu đó, hoặc phải kiểm tra các dữ kiện được khẳng định. Do đó, câu ‘Habermas là triết gia Đức’ có ý nghĩa bởi vì tôi hiểu làm thế nào Habermas có thể là triết gia Đức (trong khi, tôi sẽ không thể hiểu làm thế nào mà tam giác có thể có bốn cạnh hay thứ Ba có thể ẩm ướt), và do đó tôi hiểu loại bằng chứng nào phải tìm kiếm để thiết lập nên chân lý của câu. Nói đơn giản, tính có ý nghĩa của câu liên quan đến thực tế rằng nó quy chiếu tới sự vật, con người và các sự kiện ở thế giới bên ngoài. Nhiều cuộc tranh biện trong triết học phân tích đã dựa trên nền tảng đơn giản này.

Một cách tiếp cận khác tập trung vào những gì được gọi là phương diện dụng hành (pragmatic) của ngôn ngữ. Ở đây mối quan tâm hàng đầu là làm thế nào mà những người cụ thể tạo ý nghĩa một câu cụ thể được phát ra trong ngữ cảnh cụ thể. Ở mức độ cực đoan nhất, cách tiếp cận này cho rằng những hành động khái quát hoá của cách tiếp cận ngữ nghĩa học hình thức là sai lầm. Không có các quy tắc chung đối với ý nghĩa. Ý nghĩa dựa trên bối cảnh cụ thể trong đó câu được phát ngôn, và dựa trên tri thức và các tiền giả định mà cử tọa mang tới bối cảnh đó. Quả thực, đây là cách tiếp cận gần gũi hơn với cách tiếp cận thông diễn học về ngôn ngữ và ý nghĩa, ít nhất trong chừng mực các nhà thông diễn học cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiểu biết sẵn có (pre-understanding) mà con người mang theo khi cố diễn giải các văn bản và các hành động hay đối tượng có ý nghĩa khác. Do đó, để hiểu một phát biểu, tôi có lẽ cần biết ít nhiều về các động cơ của cá nhân khi họ nói ra những điều ấy—hay, như triết gia người Anh, R.G. Collingwood từng nhận xét, vấn đề của cách tiếp cận ngữ nghĩa học hình thức là không dò xét tông giọng của người nói. Nhưng ngôn từ giống hệt nhau có thể có những ý nghĩa rất khác nhau nếu được nói một cách châm biếm hay mỉa mai (vì thế, thực tế câu ‘Habermas là một triết gia Đức’ có thể là câu hỏi về giá trị của triết học Đức nói chung, hay, một cách mỉa mai, bác bỏ việc khẳng định một nhà xã hội học được tôn vinh lại thành một triết gia).

Cách tiếp cận dụng hành thậm chí nhấn mạnh nhiều hơn đến các chi tiết đặc thù của ngữ cảnh phát ngôn. Do đó, để hiểu câu ‘Habermas là triết gia Đức’, tôi phải biết đôi điều về ngữ cảnh. Nếu nó là để đáp lại câu hỏi ‘Thủ đô của Peru là gì?’, thì nó vô nghĩa (và tôi xem như cho rằng người trả lời nghe lầm câu hỏi, và đã không hiểu tôi). Các triết gia, chẳng hạn như Wittgenstein, bàn về hình thức của đời sống hay cuộc chơi ngôn ngữ trong đó phát ngôn được tạo ra, chỉ ra rằng các quy tắc chi phối ý nghĩa thay đổi một cách tinh tế theo ngữ cảnh. Câu hỏi, ‘Thủ đô của Peru là gì?’, có nghĩa chỉ trong những ngữ cảnh nhất định, chẳng hạn như một bài kiểm tra địa lý hay chương trình đố vui (và thậm chí ở đây có thể có vấn đề, vì câu hỏi này có thể trông như quá đơn giản trong kỳ thi đại học đến mức nó có thể gây khó hiểu cho các thí sinh).

Nếu cách tiếp cận ngữ nghĩa học hình thức tập trung vào những khẳng quyết, thì lợi điểm của cách tiếp cận dụng hành là có thể đối phó với các cách sử dụng khác nhau đối với ngôn ngữ, chẳng hạn các câu hỏi, hành vi ra lệnh, và các câu cảm thán diễn tả nỗi bất ngờ (xem hành động phát ngôn/speech acts). Hơn nữa, sẽ có các quy tắc riêng biệt chi phối những gì khiến cho mệnh lệnh trở nên có ý nghĩa (vì thế khi ra lệnh trung sĩ ‘tước vũ khí kẻ địch’ thì viên đại uý đã tạo ý nghĩa trên chiến trường, trong khi yêu cầu ‘bỏ con chó ra’ sẽ thành ra kỳ khôi trong hoàn cảnh này).

Habermas thừa nhận những lợi thế của cách tiếp cận dụng hành so với cách tiếp cận ngữ nghĩa học hình thức. Dù vậy, ông vẫn phê phán cách tiếp cận dụng hành vì nó tập trung thái quá vào chi tiết của các cuộc gặp gỡ và trao đổi đặc thù. Ý nghĩa dường như phân mảnh thành nhiều bó quy tắc khác nhau, mà hiếm có hoặc không có điều gì chung cả. Cương lĩnh về thuyết dụng hành phổ quát/universal pragmatics của Habermas (hay sau đó ông gọi là ‘thuyết dụng hành hình thức’ [formal pragmatics]) vừa cố bao hàm những hiểu biết của ngữ dụng học, vừa tìm cách xác định các quy tắc khác nhau vốn phải chi phối việc sử dụng ngôn ngữ có ý nghĩa bất kể ngữ cảnh. Ông tập trung vào năng lực của người dùng ngôn ngữ hàng ngày để phát ngôn—tức là ông ít quan tâm hơn đến ý nghĩa của câu (như cách tiếp cận ngữ nghĩa học hình thức) so với các điều kiện và các quy tắc chi phối các phát ngôn, từ đó chuyển sang nói về việc sử dụng các câu trong các hoàn cảnh đặc thù. Từ đó, ông có thể tìm cách xác định tri thức mà mọi người phát ngôn đủ năng lực (competent speakers) phải có, ngoài tri thức cụ thể do ngữ cảnh ấy đòi hỏi, nếu muốn sử dụng ngôn ngữ một cách phù hợp, bất kể bối cảnh văn hoá hay ngữ cảnh đặc thù trong đó họ nói và hành động. Kết quả là sự thừa nhận các điều kiện khiến một phát ngôn có thể được cử tọa chấp nhận. Do vậy, chẳng hạn, ‘Habermas là triết gia Đức’ là câu không thể chấp nhận và vì thế vô nghĩa khi để trả lời câu hỏi ‘Thủ đô của Peru là gì?’, cũng như câu ‘Bỏ con chó ra’ là câu không thể chấp nhận và vô nghĩa ở chiến trường.

Đọc thêm: Cooke, 1994

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Bedeutung /f =, -en/

ý nghĩa, nghĩa, ý; von - quan trọng, trọng đại; - haben có ý nghĩa; óhne Bedeutung không có ý nghĩa, không nghĩa lý gì, ít quan trọng; - gewinnen có ý nghĩa; einer Sache (D) eine - beimessen [beilegen] cho ý nghĩa.

~ bedeutung /f =, -en/

ý nghĩa cơ bản, ý nghĩa chủ yéu nhất; ~ bedeutung

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Bedeutung

[VI] Ý nghĩa

[DE] Bedeutung

[EN] meaning

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Bedeutung

significance

Metzler Lexikon Philosophie

Bedeutung

Man muss zwischen natürlicher und nicht-natürlicher B. unterscheiden. Ein Fall von natürlicher B. liegt vor, wenn sich ein Zeichen allein aufgrund einer kausalen Korrelation auf einen Gegenstand bezieht (Bsp. »Rauch bedeutet Feuer«). Bei nicht-natürlicher B. dagegen wird der Bezug zu einem Gegenstand mittels Konventionen oder Sprecherintentionen (Bsp. »Es brennt« bedeutet, dass es brennt) hergestellt. Letztere Art der Verbindung zu analysieren ist zentrales Anliegen der Bedeutungstheorie. Wenn im Folgenden von »B.« ohne Zusatz die Rede ist, soll immer nicht-natürliche B. gemeint sein. – »B.« ist ein Grundbegriff der Semantik, da man darunter zumeist die B. sprachlicher Zeichen versteht. Allerdings ist B. nicht nur ein Problem der Sprachwissenschaft, sondern spielt auch in der Philosophie, der Psychologie, der Biologie, der Theologie, der Geschichtswissenschaft oder der Soziologie eine wesentliche Rolle. Dieser Umstand trägt dazu bei, dass es eine terminologische Vieldeutigkeit des Begriffs sowie eine Vielzahl unterschiedlicher Theorien gibt, die das Phänomen der B. erklären wollen. Zum einen werden in den verschiedenen Wissenschaften unterschiedliche, wenn auch miteinander zusammenhängende Phänomene durch den Bedeutungsbegriff erfasst, zum anderen benutzen konkurrierende Semantiktheorien unterschiedliche Grundlagen anderer Wissenschaften als Ausgangspunkte.

Es gibt eine Familie nur teilweise synonymer Begriffe – content, meaning, reference, sense (engl.), signification, désignation (frz.) –, die in der Geschichte der Sprachphilosophie und Semantik wechselseitig Einfluss aufeinander genommen haben. So findet sich z.B. in der Sprachphilosophie Freges die Unterscheidung von »Sinn« und »B.«, wobei Letztere den Gegenstand eines sprachlichen Zeichens (Wortes, Satzes) meint. Der Frege’sche Terminus »B.« entspricht also heute dem Begriff der «Referenz«, bzw. des Referenzgegenstandes. Im Gegensatz dazu wird der Frege’sche Terminus »Sinn« mit »B.« übersetzt.

Fragt man nach dem Wesen der B., so ist es sinnvoll, die Frage nicht auf die B. sprachlicher Zeichen zu beschränken, sondern das Phänomen umfassend zu untersuchen. Ziel einer Bedeutungstheorie muss es sein, diejenigen grundlegenden Entitäten zu untersuchen, die dann als ein Anwendungsfall auch die B. sprachlicher Zeichen konstituieren. Während die Semantik die Art der Zuordnung dieser grundlegenden Entitäten zu sprachlichen Zeichen zu klären versucht, muss eine allgemeine Theorie der B. darüber hinaus klären, welche Art von Entitäten z.B. einem sprachlichen Zeichen zugeordnet werden. Außerdem hat eine Bedeutungstheorie die Aufgabe, die Verstehensleistungen eines Sprechers zu explizieren (Dummett). – Es werden im Folgenden vier grundlegende Ansätze vorgestellt, das Wesen von B. generell zu bestimmen. Die B. der Zeichen einer natürlichen oder künstlichen Sprache gilt allgemein als der wichtigste spezielle Bedeutungsbegriff, der in der Semantik untersucht wird. Es lassen sich vier Hauptarten von Theorien unterscheiden, die das Wesen von B. klären wollen. Es handelt sich dabei um Idealtypen, so dass einzelne Theorien durchaus Elemente daraus kombinieren können. Die nun folgende Klassifikation ist daher – mit Ausnahme der vierten Variante – nicht exklusiv.

(1) B.en als besondere Gegenstände: Ausgehend von der klassischen Auffassung des Funktionierens von Eigennamen gibt es Versuche, die B. als eine besondere Art von Gegenstand zu interpretieren, vermittels dessen ein Zeichen auf ein Referenzobjekt bezogen wird (einige Vertreter der kausalistischen Namentheorie, z.B. Kripke oder Putnam, identifizieren dabei sogar die B. eines Namens mit seinem Referenzobjekt). – Der klassischen Vorstellung Lockes zufolge ist die B. eines Zeichens die Vorstellung (idea), die ein Sprecher mit der Äußerung des Zeichens assoziiert. Da Vorstellungen als psychische Zustände aber nicht intersubjektiv allgemein sein können, hat diese Theorie den Mangel, intersubjektive Invarianz nicht erklären zu können. Genau solch eine Invarianz gegenüber Zeitpunkten und Sprechern scheint aber bei Kommunikation vorzuliegen. Frege identifiziert in seiner Theorie die B. eines sprachlichen Zeichens (Freges »Sinn«) mit einem abstrakten Gegenstand (Universalien). Dabei entspricht einem ganzen Satz ein Gedanke (Sachverhalt, Propositionaler Gehalt). Sprachliche Äußerungen beziehen sich also auf Objekte mittels besonderer Entitäten, nämlich B.en. Eine natürliche Sprache ist dann ein System konventioneller Zuordnungen von Zeichenfolgen zu solchen B.en.

(2) B.en als besondere Intentionen: Die auf Grice zurückgehende und von Bennett ausgearbeitete Theorie, B.en mit einer bestimmten Sorte von Intentionen zu identifizieren, zufolge sind B.en Intentionen innerhalb konkreter Kommunikationsversuche. Eine kommunikative Handlung ist dabei definiert als der Versuch eines Sprechers, durch sein Sprecherverhalten bei einem Hörer eine bestimmte Überzeugung hervorzurufen, wobei eine notwendige Bedingung für den Erfolg in den Augen des Sprechers ist, dass der Hörer genau diese Absicht auch erkennt. Die kommunikative Absicht des Sprechers (S) gegenüber dem Hörer (H) hat dabei folgende Form: S will, dass H glaubt, dass p der Fall ist, dadurch dass H erkennt, dass S genau dies mit seinem Kommunikationsverhalten erreichen will. – Dieses Vorgehen kann als Bedeutungsnominalismus bezeichnet werden, weil B.en mit Intentionen bei konkretem Verhalten identifiziert werden (das Problem der Invarianz stellt sich also auch hier, da es sich um jeweils konkrete Intentionen eines Sprechers zu einem bestimmten Zeitpunkt handelt). Bennett versucht daher zu zeigen, dass man von solchen temporären, nicht konventionell festgelegten Intentionen als B.en ausgehend konventionelle, in einer Sprechergemeinschaft festgelegte B.en herleiten kann. Für diesen Übergang nutzt er den Konventionsbegriff von Lewis, der auf spieltheoretischer Grundlage durch die Unterscheidung von impliziten und expliziten Konventionen einen solchen Übergang von nicht-konventionellen zu konventionellen B.en ermöglicht. Die in einer Sprechergemeinschaft feststellbaren Verwendungen können dabei auch von Sprecher zu Sprecher variieren. Um diesem Phänomen gerecht zu werden, führt Putnam in die Bedeutungstheorie das Prinzip der sprachlichen Arbeitsteilung ein, wonach je nach Kenntnisstand des einzelnen Sprechers reichhaltigere oder ärmere Verwendungen vorliegen können. So verwendet z.B. ein Elektriker das Wort Elektromagnet auf andere Weise als ein Laie, da dem Fachmann eine Reihe von Informationen bekannt sind, von denen der Laie nichts weiß. Dennoch benutzen beide das gleiche Wort. Die von allen Sprechern geteilte, einfachste B. ist dabei das Stereotyp. Diese B. muss jeder kompetente Sprecher kennen, während die Abweichung durch unterschiedlichen Kenntnisstand bezüglich der Gegenstände erklärt werden kann. Gelingende Kommunikation setzt diesem Ansatz zufolge keine vollständige Gleichheit der B. voraus. – Trotz der damit erreichten Verallgemeinerung von B.en auf eine Sprachpraxis und eine Sprechergemeinschaft sind B.en nach diesem Ansatz keine abstrakten Gegenstände, so dass es dieser Bedeutungstheorie zufolge keine Invarianz, d.h. keine strikte Identität der Überzeugungen zwischen Sprecher und Hörer gibt.

(3) B.en als Sonderfall von Information: Nicht-natürliche, auf Konventionen beruhende B. ist nach diesen Theorien als Sonderfall der natürlichen B. zu analysieren. Die Welt ist aufgrund ihrer kausalen Ordnung mit Information beladen. Diese besteht darin, dass auf Situationen einer bestimmten Art nicht alle beliebigen, sondern nur Situationen bestimmter anderer Arten folgen können. Da Lebewesen in ihrer jeweiligen Umwelt überleben wollen, ist es für sie wichtig, vorliegende Informationen aus aktuellen Situationen zu entnehmen, um daraus Erwartungen für die Zukunft abzuleiten (z.B. das Verhalten der Beute bzw. des Angreifers). Dafür ist es notwendig, dass solche Organismen die in der Welt enthaltene Information intern repräsentieren, d.h. Überzeugungen bezüglich der Welt haben. In einem weiteren Schritt entwickeln sich evolutionär innerhalb dieser Organismen interne Repräsentationssysteme, die dazu dienen, die Informationen herauszufiltern, die für den Organismus besondere Relevanz haben. Ein solches internes Repräsentationssystem kodiert also die Fülle der erhältlichen Informationen nach einem vorgegeben Muster. Sprache (als System von Begriffen verstanden) lässt sich nun als solch ein internes Ordnungssystem verstehen, das dazu dient, aus der Fülle der in der Welt enthaltenen Informationen die für das jeweilige Lebewesen relevante zu repräsentieren (Dretske). Während die in einer Situation enthaltenen Informationen alle gleichberechtigt sind, da sie alle in die kausale Ordnung der Welt eingehen, wird bei der internen Repräsentation durch Begriffe eine Auswahl getroffen, um die für den jeweiligen Organismus relevante Information herauszufiltern. Tauschen nun solche Organismen (im Regelfall Menschen) diese intern repräsentierten Informationen aus, so ist der Schritt zur nicht-natürlichen B. gemacht: Bei solchen Kommunikationsversuchen kommen, aufbauend auf evolutionstheoretisch erklärbaren Ähnlichkeiten zwischen Individuen einer biologischen Spezies, letzlich konventionell geregelte Repräsentationssysteme ins Spiel – natürliche Sprachen mit intersubjektiv festgelegten B.en (Barwise & Perry).

(4) Die skeptische Haltung: Während die drei bisherigen Ansätze zur Erklärung von Sprachverhalten B.en, wenn auch in unterschiedlicher Form, als eigenständige Elemente eingeführt haben, verzichtet der Bedeutungsskeptiker gänzlich auf diesen Bestandteil. »Meaning, or use, yes, meanings, no« – so lautet der Slogan Quines, des prominentesten Vertreters dieser Haltung. Ausgehend von einer behavioristischen Theorie lässt sich Sprachverhalten Quine zufolge als wechselseitige Beeinflussung verstehen, ohne dass B.en bei der Erklärung des Vorgangs der Kommunikation und Informationsweitergabe angeführt werden müssen. Kommunizierende Wesen stimmen diesem Ansatz zufolge letztlich durch wechselseitige Beeinflussung ihr Verhalten aufeinander ab. Der Versuch, Sprachverhalten ohne B.en zu analysieren, ist bei Quine durch Annahmen motiviert, die nicht aus der Bedeutungstheorie stammen, sondern einer behavioristischen Auffassung des Mentalen und einem wissenschaftstheoretischen Naturalismus entspringen. – Während die skeptische Haltung bei Quine zu einer Elimination der Bedeutungstheorie führt, entwickelt Davidson eine solche, wobei er die skeptische Ausgangsposition Quines weitgehend teilt. Davidson entwickelt eine Theorie der B. als eine Interpretationstheorie, bei der der Interpret das Sprachverhalten eines Sprechers zu verstehen versucht, indem er es auf seine eigenen Überzeugungen bezieht. Vorausgesetzt ist dabei, dass Sprachverhalten und Umwelt in einer Relation zueinander stehen, die eine sinnvolle Interpretation ermöglicht. Die erreichbare Interpretation ist aber immer relativ zu den Vorgaben des Interpreten und setzt auch voraus, dass der Interpret selbst bereits ein kompetenter Sprachverwender ist. Insgesamt schließen sich diese vier Strategien nicht gegenseitig aus. So lässt sich die zweite Position sowohl mit dem skeptischen Ansatz wie mit einer realistischen Bedeutungstheorie verbinden, da man sich hinsichtlich des ontologischen Status von Intentionen noch zwischen einer realistischen und einer reduktionistischen Auffassung entscheiden kann. Und auch den dritten Weg in der Bedeutungstheorie kann man noch unter der Fragestellung behandeln, welcher Art denn die in der Welt auffindbaren Regelmäßigkeiten sind und wie sie mit dem internen Repräsentationssystem zusammenhängen. – Unserer alltäglichen Auffassung nach setzt gelingende Kommunikation nämlich die strikte Identität des Verstandenen voraus. Wir gehen davon aus, dass ein Sprecher und ein Hörer identische B.en verstehen, wenn sie miteinander kommunizieren. Neben dieser intersubjektiven Invarianz gehen wir auch davon aus, dass ein Sprecher zu zwei verschiedenen Zeitpunkten eine identische B. denken oder kommunizieren kann (intertemporale Invarianz). Und schließlich sind wir auch davon überzeugt, dass es normalerweise möglich ist, Sätze einer natürlichen Sprache in die einer anderen natürlichen Sprache zu übersetzen (interlinguale Invarianz). All dies setzt aber voraus, dass B.en letztlich abstrakte Gegenstände sind. Theorien der B., die dem gegenüber einem Nominalismus verpflichtet sind, werden zum einen diese alltägliche Auffassung bestreiten müssen. Zum anderen aber müssen sie auch Erklärungen dafür liefern, wie Kommunikation zustande kommt. Sie werden erklären müssen, wie es partiell identische B.en zwischen Sprecher und Hörer geben kann. Die Konventionstheorie von Lewis und die Theorie der sprachlichen Arbeitsteilung von Putnam sind Versuche, hier Erklärungen zu liefern. Umgekehrt haben Bedeutungstheorien, die eine Art platonischer Universalien annehmen, zu erklären, wie biologische Entitäten als Sprecher solche B.en erfassen und kommunizieren können. Außerdem müssen diese Theorien erklären, weshalb Sprecher und Hörer mit Worten nicht immer vollständig identische B.en verknüpfen. Platonische Bedeutungstheoretiker müssen erklären, auf welche Weise die Unbestimmtheiten, Vagheiten und Unschärfen in die B.en einer natürlichen Sprache gelangen, die jeder Sprecher, der mit anderen kommuniziert, aus eigener Erfahrung kennt.

MQ

LIT:

  • Allgemein: W. P. Alston: Philosophy of Language. Englewood Cliffs 1964
  • C. K. Ogden: Die Bedeutung der Bedeutung. Frankfurt 1974
  • H. Putnam: The Meaning of Meaning. In: Ders.: Mind, Language and Reality. Philosophical Papers. Vol. 2. Cambridge 1975. S. 215271
  • Zu den vier Theorietypen: (1) G. Frege: Funktion, Begriff, Bedeutung. Fnf logische Studien. Hg. v. G. Patzig. Gttingen 1962
  • G. Frege: Logische Untersuchungen. Hg. v. G. Patzig. Gttingen 1966
  • J. Locke: An Essay concerning Human Understanding. Ed. by P. H. Nidditch. Oxford 1975. Book III (dt. Versuch ber den menschlichen Verstand. 2 Bde. Hamburg 1981/1988)
  • (2) J. Bennett: Linguistic Behaviour. Cambridge 1976
  • H. P. Grice: Studies in the Way of Words. Cambridge 1989
  • D. Lewis: Convention: A Philosophical Study. Cambridge 1979
  • G. Meggle (Hg.): Handlung Kommunikation Bedeutung. Frankfurt 1979
  • G. Meggle: Grundbegriffe der Kommunikation. Berlin 1981
  • (3) J. Barwise/J. Perry: Situations and Attitudes. Bradford 1983
  • F. I. Dretske: Knowledge and the Flow of Information. Cambridge 1981
  • (4) D. Davidson: Truth Interpretation. Oxford 1984
  • W. V. O. Quine: Word and Object. Cambridge 1960.