TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

anerkennung

Công nhận

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học HEGEL

thừa nhận

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học HEGEL

Thừa nhận

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

sự phê duyệt

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

khen ngợi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tán thưđng.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

sự công nhận

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự thừa nhận

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự khen ngợi

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tán thưồng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự công nhận chính thức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tán thành

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự đồng tình

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nhìn nhận/thừa nhận/công nhận

 
Từ điển triết học HEGEL

nhìn nhận

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

anerkennung

recognition

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

approval

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

acknowledgment

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

acknowledgement

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

recognition and acknowlegement

 
Từ điển triết học HEGEL

official approval

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Đức

anerkennung

Anerkennung

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Zulassung

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Pháp

anerkennung

La reconnaissance

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

homologation

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Chuyên ngành KT ô tô & xe máy (nnt)

v Die Anerkennung von Kfz­Betrieben als Annahme­ stellen für Altautos wird durch die zuständige Kfz­ Innung ausgesprochen.

Hiệp hội ô tô là cơ quan có thẩm quyền cho phép một cơ xưởng ô tô có quyền tiếp nhận xe thải.

Truyện Những giấc mơ của Einstein (Đức-Việt)

Nicht, daß Einstein Anerkennung nicht genießen würde.

Không phải Einstein không thích được người ta nhìn nhận công lao.

Einstein wird selbst eine Konstruktionsskizze anfertigen und Rasmussen zusenden, ohne Bezahlung oder auch nur Anerkennung dafür zu verlangen.

Einstein sẽ tự phác một bản thiết kế rồi gửi cho Rasmussen mà không đòi tiền hay một lời cảm ơn.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anerkennung von Leistungen

sự công nhận những thành tích đạt được

keine Anerkennung finden

không được công nhận.

die diplomatische Anerkennung eines Staates

sự chính thức công nhận một chính phủ về mặt ngoại giao.

unter Anerkennung des Prinzips der Gleichberechtigung

với sự công nhận nguyên tắc bình đẳng.

Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Anerkennung,Zulassung /TECH/

[DE] Anerkennung; Zulassung

[EN] approval; official approval

[FR] homologation

Từ điển triết học HEGEL

Nhìn nhận/Thừa nhận/Công nhận (sự) [Đức: Anerkennung; Anh: recognition and acknowlegement]

Danh từ Anerkennung và động từ anerkennen trong tiếng Đức trùng lấp nghĩa của “recognition” và “to recognize”, và của “acknowledgement” và “to acknowledge” trong tiếng Anh, nhưng không trùng khít với cặp nào cả. Động từ anerkennen là một cấu tạo từ của thế kỷ XVI, dựa trên mẫu của động từ tiếng Ta-tinh agnoscere (nhận ra, công nhận), đồng thời dựa trên nghĩa pháp lý (thế kỷ XIII) của động từ erkennen (“phán quyết”, “thấy” (ví dụ ai đó có tội)), chứ không dựa trên nghĩa cũ hơn, lâu đời hơn của từ đó là “biết, nhận thức”. Như vậy, nó gợi nên nghĩa: “sự nhìn nhận công khai, trên phương diện thực hành” hơn là “sự nhận thức đơn thuần về mặt trí tuệ”.

Trong tiếng Anh, động từ to recognize có năm nghĩa khá rộng:

(1) Nhận diện một vật hay một người như là một cá nhân đặc thù (ví dụ: Socrates) hay như một loại nhất định (ví dụ: sư tử). Người ta có thể nhận ra một cá nhân dựa vào trải nghiệm trong quá khứ về cá nhân đó, hoặc, khi không có trải nghiệm như vậy thì dựa vào sự hiểu biết về những nét đặc thù của cá nhân đó. Tương tự, người ta có thể nhận ra một trường hợp cá biệt của một loại nhờ trước đây đã từng gặp những trường hợp khác cũng của loại đó, hoặc dựa vào sự hiểu biết về các nét đặc thù của loại đó. Theo nghĩa này thì recognize không thể thay thế bằng acknowledge: ta có thể recognize (“nhận ra”) một ai đó mà không acknowledge (“công nhận, thừa nhận”) người đó. Trong tiếng Đức, từ mang nghĩa tương tự là erkennen (“nhận ra”) hay wiedererkennen (“nhận ra lại”) nếu nhấn mạnh đến trải nghiệm trong quá khứ, chứ hiếm khi dùng anerkennen. (Handwôrterbuch/Từ điển bỏ túi của Krug cho Wiedererkennen mang một nghĩa giống như Anerkennen là “nhận ra về mặt lý thuyết”, nhưng vẫn chủ yếu tập trung vào nghĩa “nhận ra về mặt thực hành”).

(2) Nhận ra (“to realize”) một điều gì đó, ví dụ nhận ra một sai sót, một sự thực, hay cái gì đó là thế nào đó. Trong chừng mực sự “nhận ra” này mang tính riêng tư, thì không thể dùng “acknowledge”: người ta có thể “recognize” sai sót của mình, nhưng không “acknowledge” nó. Vậy, đây là erkennen hơn là anerkennen.

(3) Công nhận, thừa nhận, thú nhận (“acknowledge”) một vật hay một người là cái gì đó. Nghĩa này tương ứng với anerkennen.

(4) Phê chuẩn, duyệt, chấp thuận, ủng hộ, chấp nhận - “acknowledge” cái gì đó; ghi nhận một việc hay một người v.v. Nghĩa này tương ứng với anerkennen.

(5) Ghi nhận về ai đó một cách đặc biệt, tôn vinh: “Cuối cùng ông ấy đã được ghi nhận”. Nghĩa này cũng tương ứng với anerkennen.

Như thế Anerkennung không chỉ đơn giản bao hàm sự xác định trong tâm trí một vật hay một người (mặc dù nó tiền giả định một sự xác định như vậy), mà còn gắn với việc dành cho vật hay người đó một giá trị tích cực và một sự thể hiện rõ ràng việc đó. Vì thế, trong HTHTT, IV.A., nơi Hegel bàn về cuộc đấu tranh vì sự công nhận hay thừa nhận (recognition), ông không xử lý vấn đề “tâm trí của những người khác” (the problem of “other minds”) tức vấn đề thẩm quyền của ai đó về mặt nhận thức luận trong việc xem những người khác như những con người (và quyền của những người khác xem ai đó là một con người), mà xử lý vấn đề: một người trở thành một con người đủ lông đủ cánh thông qua việc đạt được sự công nhận của những người khác như thế nào. Vấn đề mang tính nhận thức luận về “tâm trí của những người khác” hầu như không xuất hiện như một vấn đề riêng biệt ở thời kỳ trước J. s. Mill. Trước đó, ví dụ như ở Kant, Fichte và Schelling, vấn đề những con người khác chủ yếu là một vấn đề thực hành hay luân lý. “Những người khác” xuất hiện trên sân khấu không phải trong triết học lý thuyết, mà là trong triết học thực hành, nổi họ được xem như những tạo vật ngang hàng với bản thân tôi; tôi tương tác với họ, tôi có những nghĩa vụ nào đó với họ, và họ có những nghĩa vụ với tôi. Việc tôi nhận diện trong tâm trí những người đó như những con người không quan trọng bằng việc tôi nên hành xử thế nào với họ. Fichte cho rằng lý do tồn tại của những người khác, và lý lẽ biện minh cho niềm tin của ai đó vào họ, chủ yếu mang tính luân lý: những người khác hiện hữu để đặt ra những thúc ép về mặt luân lý lên hành vi của cái Tôi và tạo không gian cho sự nỗ lực luân lý của nó. Schelling biện giải rằng việc tôi thừa nhận những người khác là cần thiết cho niềm tin của tôi vào một thế giới KHÁCH QUAN, cái thế giới được những người khác, cũng như cả tôi, nhận thức, và như thế thế giới đó không đòi hỏi sự hiện diện của tôi hay ý thức của tôi về nó để tồn tại. Điểm mới ở Hegel (tuy điều này có đóng góp đáng kể của Hobbes, Rousseau, Schiller, Schelling, v.v.) là ở chỗ xem những mối quan hệ liên cá nhân không phải chủ yếu là các quan hệ về mặt luân lý, và sự công nhận lẫn nhau không đơn giản chỉ là đòi hỏi của LUÂN LÝ.

Trong HTHTT, IV.A và BKTIII §§430-5, Hegel gắn kết sự công nhận với Tự-Ý THỨC, nhưng chỗ này chỗ khác lại gắn kết với TÍNH NHÂN THÂN. HTHTT, IV.A khó (đọc) do một số lý do: (i) nó thử trả lời không chỉ cho câu hỏi “Tự-ý thức đòi hỏi những gì?”, mà còn cho câu hỏi “Các quan hệ xã hội khởi nguồn như thế nào?”. Vì thế, nó lấy cuộc đấu tranh gần với mô hình của Hobbes làm điều kiện cho sự công nhận. (Tại BKT III §432A, Hegel thừa nhận rằng cuộc đấu tranh đó thuộc về trạng thái tự nhiên, và trong NHÀ NƯỚC hiện đại thì sự công nhận được đảm bảo bởi các phương tiện khác), (ii) Nó kết hợp trong một câu chuyện duy nhất một loạt các yếu tố riêng biệt, ví dụ một chiến binh phải liều lĩnh đương đầu với CÁI CHẾT để tách biệt bản thân mình khỏi tình trạng tự nhiên của chính mình, khỏi chính cuộc SỐNG của mình. Nhưng người ta có thể tự mình đánh liều mạng sống của mình một cách có ý thức, với hoặc không cần sự hiện diện của những người khác, và như thế với hoặc không cần sự công nhận của những người khác về sự liều lĩnh đó của mình, (iii) Anerkennung được sử dụng không chỉ với một nghĩa, mà nhiều hơn: cái cần thiết cho tự-ý thức hay tính nhân thân chính là sự thừa nhận (nghĩa thứ 4 của recognition nói ở trên), sự thừa nhận với tư cách một con người, như một người giữa những người khác. Nhưng cái mà một chiến binh tìm kiếm lại là recognition (theo nghĩa thứ 5 của recognition), một sự tôn vinh đặc biệt giá trị của anh ta, tưong phản với giá trị của những người khác. Mục tiêu đó thất bại nếu sự công nhận này mang tính hỗ tưong, có đi có lại. Nhưng nó cũng thất bại nếu mang tính đon phưong, bởi vì sự công nhận chỉ có giá trị ngang với người công nhận; nếu người công nhận không được công nhận bởi chính đối tượng đón nhận sự công nhận đó, thì sự công nhận đó là vô nghĩa, vô giá trị.

Nhờ dựa một phần vào tính đa nghĩa của Anerkennung, Hegel hòa lẫn ba vấn đề riêng biệt:

(a) Vì sao tự-ý thức đòi hỏi tôi phải nhận ra những người khác, và được người khác nhận ra (theo nghĩa (1) và (2) của recognition)?

(b) Vì sao đòi hỏi tôi phải chấp nhận những người khác, và được những người khác chấp nhận (nghĩa thứ 4 của recognition)?

(c) Vì sao đòi hỏi tôi (đặc biệt) phải được công nhận, [vinh danh, biết ổn] bởi những người khác (nghĩa thứ 5 của recognition)?

Nhưng những câu trả lời của ông không chỉ phụ thuộc vào sự nhập nhằng đa nghĩa của Anerkennung:

(a) Tồn tại trong trạng thái tự-ý thức hay với tư cách một NHÂN THÂN chính là ý thức về bản thân như một cái Tôi, tưong phản với các trạng thái thể xác và tâm lý của bản thân mình. Nó phải là trạng thái “được phản tư vào trong chính mình”, chứ không chỉ tồn tại đon giản như một sự sinh sôi nảy nở bất tận của, ví dụ, các ham muốn. (Nỗ lực đầu tiên của tự-ý thức trong việc xác lập chính mình là thỏa mãn ham muốn của bản thân thông qua việc tiêu thụ hết thứ này đến thứ khác). Nhưng PHẢN TƯ vào trong chính mình đòi hỏi ta phải được phản chiếu từ cái gì đó không đon thuần được coi như một đối tượng để tiêu thụ, mà như một cái Tôi (hay cái tự ngã) khác ngang hàng với bản thân tự ngã của mình. Việc sử dụng cái “Tôi” là tưong phản, và như thế, cũng đòi hỏi việc sử dụng cái “Anh ấy/Chị ấy” [người khác], cũng như cái “Nó” [vật khác].

(b) Tư cách pháp nhân [của một cá nhân] gắn kết rất rõ với sự công nhận: sự công nhận một cách thích đáng cái gì đó như một nhân thân vừa là điều kiện cần vừa là điều kiện đủ để cái đó là một “nhân thân” (“person”) (kiểu như việc Caligula chỉ định con ngựa của ông ta làm quan chấp chính là điều kiện cần và đủ để con ngựa đó là quan chấp chính), mặc dù thông thường tiêu chí của tư cách nhân thân tự nhiên phải được đáp ứng bởi một thực thể mà sự công nhận đó dành cho. Nhưng vì sao lại đòi hỏi sự chấp nhận (nghĩa thứ 4) cho một tư cách cá nhân tự nhiên hay cho tự-ý thức? Vì sao sự phản tư của tôi vào trong bản thân mình từ một cá nhân khác lại đòi hỏi người kia phải công nhận hay ghi nhận tôi như một cá nhân, chứ không chỉ đon giản là tôi nhìn anh ta như một cá nhân? Có thể có một vài câu trả lời như sau:

(i) Selbstbewusstsein (tự-ý thức) cũng có nghĩa “tự tin, tự trọng”. Tự trọng đòi hỏi sự xác nhận của những người khác: những ai thường xuyên bị người khác đánh giá thấp sẽ có khuynh hướng tự đánh giá thấp chính bản thân mình.

(ii) Trừ phi các cá nhân chấp nhận lẫn nhau theo nghĩa (4), nếu không họ không có bằng chứng để nhận ra nhau theo nghĩa (1) và (2): để trở nên tự-ý thức, mỗi người phải nhận ra những người khác theo nghĩa (1) và (2). Nhưng không ai có thể có bằng chứng là một ai đó làm điều đó, trừ phi mỗi người cũng chấp nhận những người khác theo nghĩa (4).

(iii) Để nhận ra những người khác theo nghĩa (1) và (2), tôi phải có khả năng tư duy, và như vậy (theo quan điểm của Hegel) phải có khả năng nói một ngôn ngữ. Nhưng tôi không thể nắm được một ngôn ngữ trừ phi tôi nói với những người khác, và nói với những người khác chính là chấp nhận những người đó theo nghĩa (4). “Cái Tôi” tưong phản với, và đòi hỏi, “Bạn”.

c) Niềm tin của Hegel rằng tự-ý thức kéo theo sự ghi nhận theo nghĩa (5) có 4 nguồn gốc:

(i) Niềm tin (có vẻ hợp lý) của Hegel rằng phần lớn hành vi của chúng ta là “dễ nhận thấy”, nó ít được thúc đẩy bởi giá trị nội tại của hành vi đối với chúng ta hon là bởi ý muốn được người khác nhìn thấy mình đang hành xử theo một cách nào đó và như vậy có được sự ghi nhận (nghĩa 5) đon phưong.

(ii) Nghĩa là “tự khẳng định” (“Selbstbehauptung”/ Anh: “self-assertiveness”) của tự-ýthức.

(iii) Sự hợp nhất (bởi Hegel) giữa tự-ý thức với sự xung đột trong “trạng thái tự nhiên” theo nghĩa của Hobbes.

(iv) Niềm tin (có vẻ hợp lý) của Hegel rằng để vượt qua bản ngã tự nhiên của mình (hoặc các ham muốn của mình v.v.) và để được phản tư vào trong bản thân xét như một cái Tôi thuần túy, ta cần phải phục tùng một tác nhân bên ngoài, và được tác nhân đó rèn luyện tính kỷ luật. (Danh từ Zucht, có gốc từ động từ ziehen (lôi, kéo V.V.), vừa có nghĩa “GIÁO DỤC (Erziehung), dạy dỗ...”, vừa có nghĩa “rèn luyện, kỷ luật”, thường gắn với TRỪNG PHẠT). Như vậy, sự ghi nhận người khác một cách đơn phương (nghĩa 5) làm tăng cường tự-ý thức của cả người nô lệ trong HTHTT, IV. A. lẫn của đứa trẻ trong Nhà nước hiện đại.

Đoàn Tiểu Long dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anerkennung /die; -, -en/

sự công nhận; sự thừa nhận; sự khen ngợi; sự tán thưồng (Würdigung, Lob, Achtung, Respektierung);

Anerkennung von Leistungen : sự công nhận những thành tích đạt được keine Anerkennung finden : không được công nhận.

Anerkennung /die; -, -en/

(PI selten) sự công nhận chính thức;

die diplomatische Anerkennung eines Staates : sự chính thức công nhận một chính phủ về mặt ngoại giao.

Anerkennung /die; -, -en/

(PI selten) sự tán thành; sự đồng tình (Billigung, Zustimmung);

unter Anerkennung des Prinzips der Gleichberechtigung : với sự công nhận nguyên tắc bình đẳng.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Anerkennung /f =, -en/

sự] công nhận, thừa nhận, khen ngợi, tán thưđng.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Anerkennung /f/CH_LƯỢNG/

[EN] approval

[VI] sự phê duyệt

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Anerkennung

[VI] Thừa nhận

[DE] Anerkennung

[EN] recognition; acknowledgement

Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Anerkennung

[DE] Anerkennung

[EN] acknowledgment, recognition

[FR] La reconnaissance

[VI] Công nhận

Metzler Lexikon Philosophie

Anerkennung

(1) In der Urteilstheorie der traditionellen Logik bedeutet A. die Bejahung einer Aussage. Für die moderne Logik macht Frege geltend, dass die A. immer ein Urteil darstellt: man urteilt, indem man einen Gedanken als wahr anerkennt. (2) In der praktischen Philosophie spielt der Begriff der A. in doppelter Hinsicht eine Rolle: (a) in Bezug auf das interpersonale Verhältnis von Individuen und (b) in Bezug auf den Geltungsanspruch von Normen. – (a) Als Begriff der praktischen Philosophie beinhaltet er das Verhältnis der Individuen in einer doppelten Hinsicht: einerseits die Bildung eines gemeinsamen Bewusstseins verschiedener Subjekte und andererseits die Individualisierung der einander Anerkennenden. Diese Thematik wird in besonderer Weise von Fichte und Hegel behandelt. Beide gehen von zwei Annahmen aus: (1) Selbstbewusstsein bedeutet Unabhängigkeit des Ich von jedem Nicht-Ich, und zwar als tätige Negation jeden Andersseins; (2) jedes Selbstbewusstsein kann sich andererseits nur in einem von ihm Unterschiedenen (d.i. anderen Selbst) erfassen. Dazu ist es auf das Anderssein angewiesen, das es zum Zweck der Unabhängigkeit negieren muss. Die Theorie der A. ist von Hegel und Fichte als Lösung dieses Problems konzipiert. Bei Fichte kann jeder nur dadurch zum Bewusstsein seiner Freiheit kommen, indem ihn ein anderer zu einer freien Handlung auffordert. Der Handlungsauffordernde muss dazu einen Handlungsspielraum freigeben, indem er seine eigene Willkürfreiheit beschränkt. Wenn der Andere diese Aufforderung zur Selbstbestimmung in seinem Handeln realisiert, beschränkt er seinerseits seine Willkür und gibt dem Anderen die Möglichkeit zur Selbstbestimmung. Erkennen der eigenen Freiheit ist demgemäß nur durch Anerkennen der Freiheit des Anderen möglich. Jeder kann am Anderen die Möglichkeit der Selbstbestimmung erfahren, indem er seine schrankenlose Willkür (d.i. sein »eigenes Anderssein«) negiert (Siep). Für Hegel besteht die Freiheit des Selbst nicht im ausschließenden Negieren des Anderen, sondern in der Einsicht, eine gemeinsame Identität mit ihm zu haben, nämlich ein freies Subjekt zu sein. Diese Einsicht ist das Resultat eines dialektischen Prozesses, den er als Kampf um A. darstellt: (1) Die Beziehung auf sich selbst stellt eine Beziehung auf den Anderen dar: eine Negation bzw. Vernichtung des Anderen; (2) durch die Beziehung auf den Anderen schaut er sich selbst im Anderen an (Beziehung auf sich selbst); (3) beide sind selbst die ganze Beziehung, denn jedes Subjekt ist für sich Beziehung auf sich selbst und auf sein Anderes (Siep). In der Rechtsphilosophie benennt Hegel drei Formen der A.: Dem affektiven Anerkennungsverhältnis der Familie entspricht das menschliche Individuum als konkretes Bedürfniswesen. Die Liebe stellt ein Verhältnis wechselseitiger A. dar, in dem die natürliche Individualität der Subjekte Bestätigung findet. Dem kognitiv-formellen Anerkennungsverhältnis des Rechts entspricht die abstrakte Rechtsperson, dem des Staates entspricht das Individuum als konkretes Allgemeines, d.h. das in seiner Einzigartigkeit vergesellschaftete Subjekt.

(b) In Bezug auf die Rechtfertigung praktischer Sätze wird der A. ein grundlegender Status zugewiesen (Ilting): Für eine Theorie des Handelns ist es eine entscheidende Frage, welche Bedingungen gegeben sein müssen, damit eine Aufforderung (zur Handlung oder zur Unterlassung) wirksam werden kann. Der Auffordernde muss seine Forderung mit einem Angebot an den Aufgeforderten für den Fall verbinden, dass dieser die Aufforderung annimmt und die geforderte Leistung erbringt. Das Angebot muss den Vorschlag beinhalten, dass eine wechselseitige Aufforderung und ein wechselseitiges Annehmen einer Aufforderung sich gegenseitig bedingen. Zwischen den Beteiligten muss Übereinstimmung darüber hergestellt werden, dass diese Bedingung ihr beiderseitiges Verhalten regeln soll – die Übereinstimmung stiftet eine Gemeinsamkeit zwischen den Individuen. Diese vertragsähnliche Übereinstimmung stellt die A. eines Sollensatzes dar, zu dem sich jeder im vorhinein als Bedingung seines Handelns zu verpflichten hat. Diese A. soll als ein Akt des Willens angesehen werden, der auch weiterhin gegen jeden geltend gemacht werden kann. Nur wer diese Grundnorm anerkannt hat, ist überhaupt erst eine »Person«, mit der man sinnvoll eine Übereinkunft über weitere gemeinsame Normen treffen kann. Mit der A. der Grundnorm ist unmittelbar die Anerkennung anderer Personen verbunden.

(c) Eine besondere Rolle spielt die A. für jene Formen der Ethik, die auf dem Beratungsprinzip (Schwemmer) oder auf den Geltungsansprüchen des praktischen Diskurses (Apel, Habermas) aufbauen. Das Beratungsprinzip setzt die universelle A. des Grundsatzes der Verständigung (über moralische Konflikte) voraus. In dem Modell einer konstruktiven Ethik wird in den einzelnen Schritten aufgezeigt, inwiefern die A. als Herstellung einer intersubjektiven Gemeinsamkeit verstanden werden kann: Die Intersubjektivität stellt sich her (1) über die Klärung eines intersubjektiv verbindlichen Sprachgebrauchs, (2) über die Wechselseitigkeit der sprachhandlungsimmanenten Verpflichtungen, (3) über die Verallgemeinerung der partikularen Vorschläge zu intersubjektiv geltenden Normen, und schließlich (4) über die Universalisierung von Handlungsnormen. Das Modell der Herstellung kann auch als Rekonstruktion einer fiktiven Herstellung intersubjektiver Gemeinsamkeit verstanden werden, die die notwendig unterstellte A. explizit macht. In der kommunikativen Ethik (Diskursethik, Transzendentalpragmatik) gründet die universelle A. des Grundsatzes der Verständigung und der anderen Personen als gleichberechtigte und freie Partner in den notwendigen Bedingungen der Sprechhandlungen. Diese Bedingungen muss jedes Mitglied einer Sprachgemeinschaft zumindest implizit anerkannt haben, da sie die Voraussetzungen für das Gelingen von Sprechhandlungen darstellen. Die Idee der diskursiven Einlösung von den Geltungsansprüchen der Wahrheit und Richtigkeit oder die Idee der argumentativen Begründung (Kambartel) setzt weiterhin die A. derjenigen Bedingungen voraus, die für einen argumentativen Konsens konstitutiv sind, nämlich gleichberechtigte Teilnahme am Diskurs und uneingeschränktes und zwangsfreies Rederecht.

PP

LIT:

  • K.-O. Apel: Das Apriori der Kommunikationsgemeinschaft und die Grundlagen der Ethik. In: Transformation der Philosophie. Bd. II. Frankfurt 1973. S. 358 ff
  • J. G. Fichte: Grundlage des Naturrechts. Hamburg 1979. 3 u. 4
  • Ders.: System der Sittenlehre. Hamburg 1963. 18
  • J. Habermas: Diskursethik Notizen zu einem Begrndungsprogramm. In: Moralbewutsein und kommunikatives Handeln. Frankfurt 1983. S. 53 ff
  • G. W. F. Hegel: Realphilosophie von 1803/04 (Ges. Werke Bd. 6)
  • Ders.: Realphilosophie von 1805/06 (Ges. Werke Bd. 8)
  • Ders.: Phnomenologie des Geistes
  • Ders.: Grundlinien der Philosophie des Rechts
  • K.-H. Ilting: Anerkennung. Zur Rechtfertigung praktischer Stze. In: P. Becchi/H. Hoppe (Hg.): Grundfragen der praktischen Philosophie. Frankfurt 1994. S. 13 ff
  • F. Kambartel: Moralisches Argumentieren. Methodische Analysen zur Ethik. In: Ders. (Hg.): Praktische Philosophie und konstruktive Wissenschaftstheorie. Frankfurt 1974. S. 54 ff
  • P. Lorenzen/O. Schwemmer: Konstruktive Logik, Ethik und Wissenschaftstheorie. Mannheim/Wien/Zrich 1973. S. 107 ff
  • L. Siep: Zur Dialektik der Anerkennung. In: Praktische Philosophie im Deutschen Idealismus. Frankfurt 1992. S. 172 ff.