TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

consciousness

Ý thức

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh
Từ điển triết học HABERMAS

Thức

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

tình trạng thức tỉnh

 
Thuật Ngữ Âm Ngữ Trị Liệu Anh-Việt

Tâm

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

tri thức

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tri giác.

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

liễu biệt cảnh thức

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

thần thức

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

thần hồn

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

hồn thần

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Sự cảm biết.

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

ỹ thức

 
Từ điển triết học Kant

Anh

consciousness

consciousness

 
Thuật Ngữ Âm Ngữ Trị Liệu Anh-Việt
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HABERMAS

state of consciousness

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

citta

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

cognition

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

spirit

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

soul

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

philosophy of

 
Từ điển triết học HABERMAS
consciousness :

Consciousness :

 
Thuật ngữ Y Học Anh-Pháp-Đức-Việt Thông Dụng

Đức

consciousness

Bewusstsein

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

das Bewusstsein

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

der Bewusstseinszustand

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

citta

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

bewusstseinphilosophie

 
Từ điển triết học HABERMAS
consciousness :

Bewusstsein:

 
Thuật ngữ Y Học Anh-Pháp-Đức-Việt Thông Dụng

Pháp

consciousness :

Conscience :

 
Thuật ngữ Y Học Anh-Pháp-Đức-Việt Thông Dụng
Từ điển triết học HABERMAS

Ý thức (triết học về) [Đức: Bewußtseinphilosophie; Anh: Consciousness, Philosophy of]

Một tập những tiền giả định vốn là đặc trưng của nhiều nghiên cứu xã hội học và triết học truyền thống, và là đối tượng để Habermas giải thích về những thất bại nền tảng của cả triết học lẫn xã hội học hòng đưa ra những phân tích thoả đáng về những vấn đề chính trị, xã hội và triết học. Đặc biệt, triết học về ý thức bị chỉ trích vì không suy xét đến việc bản chất đời sống con người về mặt nền tảng vốn có tính liên chủ thể, và trong việc tìm hiểu về vai trò của kỹ năng giao tiếp của con người trong việc sáng tạo và duy trì đời sống xã hội. Triết học về ý thức trở thành mục tiêu bị chỉ trích liên tục trong các tác phẩm gần đây của Habermas. Nó được xem là thứ triết học thâm nhập khắp lịch sử triết học hiện đại, điển hình nơi những triết gia hiện đại sơ kỳ như René Descartes, cho đến những triết gia phân tích/analytic philosophers như Gottlob Frege và Bertrand Russell, và cả những triết gia lục địa bao gồm Husserl, Heidegger và Derrida (Habermas 1988a, tr. 131–184). Chỉ từ khi có bước ngoặt sang triết học ngôn ngữ/language, khởi xướng bởi những triết gia như Ludwig Wittgenstein và J. L. Austin, nó mới bắt đầu bị kiềm toả (xem Habermas, 1988b, tr. 117–142).

Triết học về ý thức có thể được tóm tắt theo tính ưu việt mà nó đặt lên con người cá nhân, hơn là lên những tiến trình tương tác giữa những cá nhân. Do đó, ví dụ, triết gia Kant bị chỉ trích vì đã tập trung vào cá nhân bị cô lập, trong cả học thuyết về nhận thức lẫn học thuyết về đạo đức của ông. Chính con người được phú cho những tiến trình nhận thức nhất định, những tiến trình vốn cho phép con người tạo được ý nghĩa của những kinh nghiệm cơ bản và định hình chúng thành hiện tượng của thế giới được xem là hiển nhiên hàng ngày (xem luận cứ siêu nghiệm/transcendental argument). Ở đây, để khắc phục vấn đề của thuyết duy ngã, tức khả năng của mỗi cá nhân kiến tạo nên thế giới riêng của mình và hầu như tự rút lui vào trong thế giới đó, Kant lập luận rằng những tiến trình nhận thức này phải như nhau đối với tất cả mọi người. Vì thế, với Kant, mỗi cá nhân định hình thế giới riêng của mình theo một cách giống nhau, và thực hiện một cách độc lập. Điều này trở nên có vấn đề, đặc biệt khi nó bắt đầu ảnh hưởng đến miêu tả triết học về phương pháp khoa học. Tuy không phát biểu bằng ngôn ngữ của triết học về ý thức, việc chỉ trích thuyết thực chứng/positivism của Habermas thời kỳ đầu có thể được xem như đã nêu được điểm này. Thuyết thực chứng đã trình bày phương pháp khoa học như những gì mà một cá nhân bị cô lập có thể tuân theo. Nó là một tập những quy tắc vốn dẫn dắt công việc thí nghiệm và sự hình thành lý thuyết, và có được sự bảo đảm từ tính hợp lý của chúng. Tinh thần nhiệt thành thuở ban đầu của Habermas đối với tác phẩm của triết gia dụng hành Charles Pierce có thể được xem, một phần không nhỏ, là nằm ở chỗ Peirce công nhận rằng khám phá khoa học là một hoạt động nhất định thuộc về cộng đồng. Những nhà khoa học không làm việc đơn độc mà theo các nhóm, tranh biện cũng như bảo vệ kết quả và giả thuyết của họ, chống lại những yêu sách của đối thủ (Habermas, 1971a, tr. 91–112). Một nhà khoa học đơn độc, dẫu có hợp lý, không thể là nhà phê bình hiệu quả đối với chính họ. Vì vậy, theo Habermas, lý thuyết về phương pháp khoa học phải thăm dò những tiến trình suy lý mà thông qua đó ta bảo vệ được những giả thuyết của mình. Điều này, kỳ cùng, là bộ phận không tách rời trong mối quan tâm của Habermas với yêu sách về giá trị hiệu lực của chân lý/validity claim of truth, và sẽ được nghiên cứu trong thuyết dụng hành phổ quát/universal pragmatics.

Triết học về ý thức cũng có vấn đề hệt như thế khi nó bước vào lý thuyết đạo đức và xã hội. Một lần nữa, Habermas chỉ trích triết học đạo đức của Kant bởi vì nó tiền giả định mỗi cá nhân đơn độc có thể bằng lý tính của mình tìm ra cách cư xử đúng đắn phù hợp với quy luật đạo đức. Những tính toán riêng rẽ này mang đến một kết quả hài hoà (theo đó quyết định đạo đức của mỗi cá nhân gắn liền với quyết định của mọi cá nhân khác), mà không cần bàn bạc hay chia sẻ kinh nghiệm với nhau (1976a, tr. 150–151). Điều này, thực tế, cũng nằm ở gốc rễ trong phê phán của Habermas đối với nhà lý thuyết chính trị tự do đương đại John Rawls (Habermas, 1998a, tr. 49–101).

Rawls đề xuất rằng, để tìm ra một tập những nguyên lý cơ bản về công bằng vốn có thể áp dụng cho mọi xã hội, ta nên hình dung ra một hội nghị. Nhiệm vụ của hội nghị này là thiết lập một xã hội. Việc tổ chức hội nghị như thế là quá tốt, nhưng Rawls cho rằng, nếu ta, với tư cách là những người thực, đang thiết lập một xã hội, thì ta sẽ cố gắng để tạo ra nó có lợi cho ta (hay với những người tương tự như ta) càng nhiều càng tốt (vì thế, tất nhiên, đảm bảo thêm đặc quyền cho triết gia!). Nhưng như thế ắt sẽ không có cả công bằng lẫn công lý, vì thế Rawls điều chỉnh thí nghiệm tưởng tượng của ông. Những người ở hội nghị phải chịu chứng quên có chọn lọc. Họ không biết họ là ai, hay họ có thể có tài năng gì. Bây giờ nếu họ thiết kế một xã hội, họ phải tiếp cận nhiệm vụ một cách thận trọng hơn. Họ có thể nằm trong số những người ít tài năng nhất, yếu đuối nhất hay ít hấp dẫn nhất. Bây giờ, Rawls cho rằng, hội nghị sẽ thiết kế một xã hội công bằng, tức là xã hội tôn trọng mọi người, bất kể năng lực và tài năng của họ. Với Habermas, điểm cốt yếu ở đây là, theo bề ngoài, việc này trông như thể Rawls có suy xét đến việc tương tác và thảo luận. Sau rốt, Rawls sẽ yêu cầu chúng ta tưởng tượng ra một hội nghị. Thế nhưng, vấn đề là bằng việc áp đặt chứng quên có chọn lọc (cái mà Rawls gọi là bức màn vô tri), ông đã thực sự loại bỏ tất cả những khác biệt cá nhân vốn là vấn đề hệ trọng trong những cuộc đàm thoại thực tế. Hội nghị thực sự bị thoái hoá thành một cuộc độc thoại. Habermas lập luận rằng, việc tạo ra các quyết định chính trị và đạo đức thực sự sẽ cần đến những con người thực chia sẻ và tranh biện về những khác biệt thực sự nơi quan điểm và về những kinh nghiệm thực tế (do vậy có đạo đức học diễn ngôn/discourse ethics).

Rawls còn minh hoạ một điểm nữa liên quan triết học về ý thức, và điều này không luôn luôn hiển nhiên. Trong công trình triết học phê phán của Habermas, nhiều chỗ phơi bày những giả định đối với triết học về ý thức mặc dù vị lí thuyết gia đang bàn này [tức Rawls] có lòng trung thành công khai đối với việc nhìn nhận và bao hàm các tiến trình xã hội.

Vấn đề của triết học về ý thức có hai mặt. Một mặt, như phần thảo luận về Rawls đã đề xuất, nó không đầy đủ khi nghiên cứu về sự biện minh hay sự hợp thức hoá/legitimation đối với những yêu sách đạo đức. Sự biện minh cho việc tôi ra lệnh bạn lấy cho tôi cốc nước không dựa trên sự tự biện minh của bản thân tôi. Trái lại, nó phải dựa trên sự thảo luận giữa hai chúng ta. Bạn là bên chịu tác động, và vì vậy, bạn có quyền thách thức tôi: (“Cậu tự lấy nước mà uống”!). Ý nghĩa đạo đức hay quy phạm của thuyết dụng hành phổ quát, vì vậy, nằm ở việc khám phá những tiến trình liên chủ thể mà qua đó yêu sách về giá trị hiệu lực có tính quy phạm được khiến trở thành thứ có thể chấp nhận được.

Mặt khác, triết học về ý thức cũng không thoả đáng ở vai trò một lý thuyết xã hội. Nó không giải thích được làm thế nào các mối quan hệ xã hội có thể được giữ liền lạc nhau. Tác phẩm thời kỳ trưởng thành của Habermas, xoay quanh thuyết dụng hành phổ quát hoặc lý thuyết về hành động giao tiếp, nghiên cứu việc con người thường ngày sử dụng những kỹ năng trong giao tiếp để tạo ra và duy trì các mối quan hệ xã hội với người khác. Đặc biệt, khả năng sử dụng hành động phát ngôn/speech acts, tức phát biểu để bắt đầu hay duy trì một loại hành động xã hội nào đó, và vì vậy làm cho điều gì đó xảy ra trong thế giới xã hội (như việc ra lệnh hay đưa ra một lời hứa), là nền tảng để duy trì sự tương tác. Bất cứ một lý thuyết xã hội hay triết học nào bỏ quên chiều kích này của đời sống xã hội đều là lý thuyết có lỗ hổng từ nền tảng.

Lỗ hổng này có thể biểu hiện theo một trong hai hình thức sau đây. Thứ nhất, được đưa ra bởi Max Weber, được gọi là phương pháp luận quy về cá nhân (methodological individualism) hoặc nguyên tử luận (Habermas, 1987, tr. 306). Đó là giả định rằng mọi hành động và tương tác xã hội có thể được phân tích bằng hành động của cá nhân. Điều này có vẻ đúng, cho đến khi nó mất cái nhìn về sự phụ thuộc của mỗi cá nhân vào những gì xung quanh mình, và vào môi trường văn hoá đang sống. Mặc dù phương pháp luận quy về cá nhân có thể nhìn nhận rằng các cá nhân phải hiểu được ý nghĩa đời sống xã hội xung quanh họ để có thể hành động trong phạm vi của chúng, và như thế nó nhìn nhận rằng họ cần đến những kỹ năng và kiến thức ở mức đáng kể để có thể hành động thành thạo, nhưng sự phân tích sẽ bị ngắt đi nếu nó không nhìn nhận rằng tiến trình tạo ra ý nghĩa là một tiến trình liên chủ thể chứ không phải một tiến trình thuộc về chủ thể. Không có sự công nhận này, ta sẽ trở lại các tác nhân đạo đức của Kant, tức là mỗi người tự đưa ra quyết định và tình cờ có thể phối hợp những hành động của họ với nhau.

Hình thức thứ hai mà triết học về ý thức dùng để nghiên cứu xã hội là cái mà Habermas gọi là một ‘chủ thể vĩ mô’ (macrosubject). Ở đây, thành viên cá nhân của xã hội thoát khỏi tầm nhìn hoàn toàn, và xã hội như là một toàn thể được xét như một chủ thể hoạt động. Habermas tìm ra cách tiếp cận này để mô tả nhiều tư tưởng theo chủ nghĩa Marx/Marxism, có gốc rễ từ Hegel (Habermas, 1979a, tr. 140). Theo đó, từ viễn tượng theo chủ nghĩa Marx, lịch sử có thể được xem như sự triển khai các hành động của xã hội, tại đó vấn đề then chốt là cách thức trong đó xã hội đáp lại những mối căng bức và những mâu thuẫn bên trong cơ sở kinh tế của nó. Với Habermas, xã hội có thể thay đổi chỉ khi những thành viên bình thường của xã hội nhận ra rằng đang có vấn đề (sao cho những mâu thuẫn của nền kinh tế, chẳng hạn vậy, phải được trải nghiệm như là sự đổ vỡ của đời sống thường nhật), và có các nguồn lực tri thức, văn hoá và kỹ thuật để giải quyết vấn đề. Với Habermas, lý thuyết hệ thống/systems theory trong xã hội học cũng đánh mất cái nhìn về sự tương tác đầy ý nghĩa của con người (1988a, tr. 368–385).

Đọc thêm: Freundlieb, 2003

Từ điển triết học Kant

Ỹ thức [Đức: Bewusstsein; Anh: consciousness]

Xem thêm: Thông giác, nhận thức, cáỉ Tôi, “Tôi tư duy”, Đồng nhất, Võng luận, Tri giác, Tâm lý học, Biểu tượng, Tự khởi, Chủ thể, Tổng hợp, Thống nhất,

Trong L, Kant định nghĩa ý thức như “sự hình dung rằng biểu tượng khác nằm trong tôi” tạo thành “điều kiện phổ quát cho mọi nhận thức nói chung” (L, tr. 544). Nó được cho là “đi kèm” với mọi nhận thức, xác định hình thức hay “cái làm thế nào” [có thể có được] của nhận thức (đối lập với chất thể hay nhận thức về “cái gì”). Với quan niệm về một “điêu kiện” vốn còn là một “sự đi kèm” với nhận thức, Kant tỏ ra là người thừa kế của một truyền thống tư tưởng rất phức tạp về địa vị chính xác của ý thức.

Trong De Anima [Vê Linh hồn], Aristoteles nêu ra nhiều vấn đề mà sau này sẽ xuyên suốt nỗ lực muốn định nghĩa ý thức. Ông tra hỏi liệu sự ý thức của việc nhìn có được mang lại cho ta qua thị giác “hay qua giác quan nào đó không phải thị giác” không, và nếu là cái sau, liệu “chúng ta hoặc phải rổi vào một sự quy thoái vô hạn, hoặc chúng ta phải giả định một giác quan có ý thức về chính nó” không (Aristoteles, 1941, 435b, 17). Aristoteles thích lựa chọn sau hon, nhưng vấn đề về địa vị của “sự có ý thức” hay “ý thức”, liên quan đến cái mà nó ý thức về, vẫn là một lý do cần quan tâm. Vấn đề giống vậy nảy sinh với tinh thần vốn “tự nó là có thể suy tưởng được theo cùng những cách thức giống như những đối tượng của nó” (Aristoteles, 1941, 430a, 2). Nếu không, hẳn chúng ta sẽ buộc phải tìm kiếm một hình thức của ý thức có thể chứa đựng cả tinh thần lẫn các đối tượng của nó, nếu thế thì làm thế nào chúng ta có thể trở nên có ý thức về điều này? Nói khác đi, ý thức đi kèm với một tri giác luôn vượt khỏi chính nó để chỉ đến một hình thức có tính thâu gồm [inclusive] hon của ý thức.

Trước thế kỷ XVII, không có một thuật ngữ riêng biệt nào tương ứng với “ý thức”; nó không được xem như một đặc tính của tinh thần hoặc các giác quan mà là một trong những hành động của chúng. Descartes mô tả những hành vi của việc trở nên có ý thức, chứ không phải những hành vi của một ý thức, trong khi Spinoza mô tả hành vi của linh hồn trở nên có ý thức về chính nó như “tính cảm giác”. Thuật ngữ “ý thức” lần đầu tiên được sử dụng nhất quán bởi Locke (1690), và theo sau ông là Leibniz (1765, Leibniz sử dụng thuật ngữ consciosite). Locke định nghĩa ý thức như “tri giác vê cái gì diễn ra trong tinh thần riêng của một người” (1690, tr. 42) và rút nó ra từ những hành vi của ý thức. Tuy nhiên, quan tâm chính của ông là lập luận từ sự kiện của ý thức, đến sự kiện của sự đồng nhất cá nhân, [để] biến ý thức thành cơ sở của một chủ thể: “Bởi lẽ, chính cùng ý thức như nhau đã làm cho một người là chính mình đối với chính mình, sự đồng nhất cá nhân phụ thuộc chỉ vào điều đó...” (tr. 163). Ý thức, từ việc là hành động của tinh thần hoặc của các giác quan, trở thành một hành vi của tự-ý thức đóng vai trò như một điều kiện cho mọi hành vi khác của ý thức. Với điều này, sự sợ hãi kiểu Aristoteles về một sự qui thoái vô tận đã được làm dịu đi. Kant phát triển tư tưởng rằng ý thức là một với tự-ý thức, nhưng không xem cái sau như thuộc tính của một chủ thể thường nghiệm.

Trường phái triết học Wolff đã xem ý thức như hành vi của việc có ý thức (Bewust seyn, conscium esse), hoặc như Meissner (1737) đã định nghĩa nó là “một đặc tính mà qua đó ta biết rằng ta đang suy tưởng”. Nó là một đặc tính thuần túy hình thức mà không có bất kỳ hàm ý nào gây ra những vấn đề tranh cãi về tự-ý thức và sự đồng nhất cá nhân. Kant tán thành quan điểm này về ý thức, khẳng định trong võng luận thứ ba rằng “vậy, sự đồng nhất của ý thức về chính tôi trong những thời gian khác nhau chỉ là một điều kiện mô thức của các ý tưởng của tôi và của sự nối kết giữa chúng, chứ không hề chứng minh sự đồng nhất số lượng của chủ thể tôi” (PPLTTT, A 363). Điều kiện mô thức này là sản phẩm của một “hành vi của tính tự khởi” vốn không thể được áp dụng vào bất kỳ chủ thể thường nghiệm nào hết; nó là “Tự-ý thức, tức là cái một khi làm nảy sinh biểu tượng “tôi tư duy” thì mọi biểu tượng khác đều phải có thể đi kèm theo ngay, và nó vẫn là nó trong mọi [hành vi của] ý thức và nó không thể lại đi kèm theo một biểu tượng nào khác nữa” (PPLTTT, B 132). Hành vi này, đồng nhất với thông giác thuần túy, tạo ra “sự thống nhất siêu nghiệm của tự-ý thức” vừa là điều kiện vừa là cái đi kèm của kinh nghiệm trong khi tự nó lại không phải là một đối tượng có thể có của kinh nghiệm. Nó đem lại một chân trời tiên nghiệm cho những phán đoán của kinh nghiệm vốn không gì khác hon là “sự thống nhất các biểu tượng trong một ý thức” (SL § 22). Như thế, nó phải được phân biệt triệt để với ý thức về chính chúng ta như những hữu thể thường nghiệm, hữu hạn, vốn là quan tâm của “ý thức (được áp dụng trong) tâm lý học” (NLH, § 7).

Thế hệ các triết gia ngay sau Kant đã biến Tự-ý thức thành “nguyên tắc cao nhất” của các hệ thống triết học của họ. Schelling, chẳng hạn, tuyên bố rằng “chắc chắn là với chúng ta, nhận thức Sổ yếu là nhận thức về chính ta, hay tự-nhận thức” (1800, tr. 23). Tuy nhiên, Hegel đã nỗ lực vượt khỏi triết học về ý thức. Ông phân biệt giữa ý thức, là cái quan hệ với một đối tượng, với Tự-ý thức là cái quan hệ giữa một chủ thể với Tự-ý thức khác. Ông phê phán Kant và Fichte đã bỏ qua [sự phân biệt] ý thức và Tự-ý thức, và cho rằng điều này đã dẫn đến việc đặt ra một cái Tự-ý thức bất khả tri nhưng lại có tính chủ quyền, xem các Tự-ý thức khác như thể chúng là những sự vật. Trong Hiện tượng học Tinh thần, Hegel đưa ra một khảo sát về sự ra đời của ý thức và Tự-ý thức dựa trên một sự đấu tranh giành sự thừa nhận, trong đó Tự-ý thức được khám phá thông qua sự thừa nhận của Tự-ý thức khác. Thoát ly khỏi việc đặt ngang hàng, trên phưong diện lý thuyết, giữa Tự-ý thức với chủ thể thống nhất, sự phát triển này đã báo trước nhiều bước phát triển trong triết học về ý thức của thế kỷ XX, nhất là những phát triển trong lĩnh vực phân tâm học, ở đó cái vô thức được xem như một nguồn suối của ý nghĩa được định vị ở bên kia chủ thể cá nhân (xem Freud, 1915). Chủ đề về ý thức có tầm ý nghĩa chính trị trong lý thuyết mácxít và nghiên cứu mácxít về ý thức giai cấp (xem Tenin, 1902; Tukács, 1922).

Hoàng Phú Phương dịch

Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Consciousness

Sự cảm biết.

Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

thức

consciousness

ý thức,liễu biệt cảnh thức

cognition, consciousness

thần thức

consciousness, spirit

thần hồn,hồn thần

consciousness, soul

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Consciousness

[VI] Ý thức [sự]

[DE] Bewusstsein

[EN] Consciousness

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

consciousness

Ý thức, tri thức, tri giác.

Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

Consciousness

[VI] Thức

[DE] das Bewusstsein

[EN] Consciousness

consciousness,state of consciousness,citta

[VI] Tâm

[DE] das Bewusstsein, der Bewusstseinszustand, citta (P)

[EN] consciousness, state of consciousness, citta (P)

Thuật Ngữ Âm Ngữ Trị Liệu Anh-Việt

consciousness

tình trạng thức tỉnh (ý thức)

Thuật ngữ Y Học Anh-Pháp-Đức-Việt Thông Dụng

Consciousness :

[EN] Consciousness :

[FR] Conscience :

[DE] Bewusstsein:

[VI] (thần kinh) sự tỉnh táo, thức tỉnh. Tình trạng này đòi hỏi sự nguyên vẹn của chức năng não và cuốn não.