TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

macht

Quyền lực

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học Kant

công suất

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

luỹ thừa

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

súc mạnh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lực lượng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

súc lực

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chính quyền

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

quyền bính

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

quyền hành

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chính thể

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thế lực

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nưóc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

quốc gia

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

quyền lực/mãnh lực

 
Từ điển triết học Kant

mãnh lực

 
Từ điển triết học Kant

Anh

macht

power

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học Kant

Đức

macht

Macht

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học Kant

gewalt

 
Từ điển triết học Kant
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

die bewaffnete Macht

các lực lượng vũ trang; 2. chính quyền, quyền lực, quyền bính, quyền hành; quyền thế, ảnh hưỏng, uy tín, uy thé, thế lực; 3. (chính trị) chính thể, thế lực;

die Macht in den Händen

giữ chính quyền trong tay;

die Macht an

sich (A) reißen

Từ điển triết học Kant

Quyền lực/Mãnh lực [Latinh: potentia; Đức: Gewalt, Macht; Anh: power]

Xem thêm: Xung lực, Lực, Chiếm hữu (sự),

Quyền lực là thuật ngữ được dùng để dịch những từ Macht và Gewalt trong tiếng Đức và potentia trong tiếng Latinh. Nhưng cả ba thuật ngữ này lại có những nghĩa khác nhau và được sử dụng trong những văn cảnh khác nhau. Macht [Mãnh lực] được định nghĩa trong quyển “Phân tích pháp về cái cao cả” của công trình PPNLPD là “một lực lượng thắng vượt những trở lực lớn” của tự nhiên được xét ở trong một phán đoán thẩm mỹ (§28). Tự nhiên có thể ở trên ta, nhưng không có quyền thống trị (Gewalt) ta, bởi vì sự thống trị là quyền lực “thắng vượt cả sự đề kháng của những gì bản thân cũng có mãnh lực” (§28). Khi Kant bàn về quyền lực chính trị hợp pháp, ông không thể nào không dùng đến chữ Gewalt, như trong PPNLPD §83 khi ông chỉ một quyền lực hợp pháp như là một “gesetzmäßige Gewalt”, tuy nhiên, nếu văn cảnh là cuộc nổi dậy chống lại nhà nước thì quyền lực của nhà nước chính là Macht của nó, như trong LTTH, ở đó chúng được dùng để chỉ “quyền lập pháp” (“gesetzgebende Macht”) vốn không thể bị chống đối bởi những đối tượng nổi loạn, hay như trong SHHĐL, ở đó theo cùng một cách diễn đạt, quyền lập pháp tối cao là Gewalt, sẽ trở thành quyền lực tuyệt đối - “Machtvollkommenheit” một khi nó bị chống đối [SHHĐL tr. 372, tr. 177], Thế nhưng, potentia lại là một nghĩa khác của quyền lực, lần này quy chiếu đến năng lực thể chất để sử dụng một đồ vật, ví dụ như nó tạo thành cơ sở của sự chiếm hữu vật chất hay là possessio phaenomenon [chiếm hữu hiện tượng].

Huỳnh Trọng Khánh dịch

Từ điển triết học HABERMAS

Quyền lực [Đức: Macht; Anh: Power]

Habermas quan tâm đến sự sử dụng và sự lạm dụng quyền lực chính trị trong suốt sự nghiệp của mình. Trong các công trình đầu tiên, và đặc biệt trong phạm vi lý thuyết về những lợi ích hay quan tâm về nhận thức/cognitive interests, quyền lực được bàn như một trong những yếu tố cấu thành nên sự tồn tại xã hội của con người, vì con người có lợi ích căn bản trong việc bãi bỏ sự thực thi quyền lực vô lý (Habermas, 1971a). Trong các công trình hậu kỳ, Habermas chuyển sang vấn đề sự thực thi quyền lực được biện minh như thế nào (1976b), và trong phạm vi cách tiếp cận lý thuyết hệ thống/systems theory, đặc trưng cho các nghiên cứu như The Theory of Communicative Action /Lý thuyết về hành động giao tiếp, quyền lực được lý thuyết hoá như một trong những phương tiện điều hướng phi biểu trưng/non-symbolic steering media mà qua đó các xã hội phức hợp được tổ chức (1987).

Trong các tác phẩm sơ kỳ, Habermas tiếp cận quyền lực như một thứ làm tổn hại sự tự trị của các cá nhân và các nhóm xã hội. Ở mức độ đơn giản nhất, điều này được hiểu như phương thức trong đó người chủ cưỡng chế và hạn chế hành động của người nô. Rõ ràng, nếu người hầu phải làm những gì mà người chủ ra lệnh thì anh hay chị ta không thể hành động dựa trên sáng kiến của bản thân. Theo cách tinh tế hơn, tiếp nối các công trình của Karl Marx, Habermas đề xuất rằng bản chất cưỡng bức của quyền lực trong các xã hội tư bản/capitalist nằm ở thực tế rằng nó bị che đậy. Trong khi các giai cấp thống trị ở các xã hội tiền tư bản sử dụng quyền lực một cách công khai để cưỡng ép và bóc lột các giai cấp bị trị, thì trong phạm vi của chủ nghĩa tư bản, các tiến trình bóc lột và thống trị bị che giấu bởi sự công bằng và tính tất yếu bề ngoài của sự trao đổi ngoài thị trường. Giai cấp cai trị trong phạm vi chủ nghĩa tư bản có thể tự thuyết phục rằng nó không cai trị, vì những cơ chế qua đó nó bóc lột giai cấp phụ thuộc được che giấu trong các quá trình trao đổi hàng hoá. Các nhà tân Mác-xít như György Lukács và xa hơn là Trường phái Frankfurt/Frankfurt School cho rằng quá trình che đậy này xâm nhập vào chính những cách nghĩ phổ biến trong chủ nghĩa tư bản. Ngôn ngữ và tư tưởng của chúng ta bị làm méo mó, khi quyền lực ức chế một cách có hệ thống khả năng phản tư có tính phê phán về các cội nguồn thực sự của quyền lực chính trị (xem sự vật hoá/reification). Chính xác là vì sự hiện hữu của quyền lực đang ức chế khả năng tư duy hợp lý tính của con người, nên nó cũng ngăn cản khả năng con người đưa ra những quyết định tự trị, hợp lý tính về những hành động của mình. Do đó, con người quan tâm đến việc được giải phóng khỏi sự áp bức chính trị.

Khi Habermas bắt đầu từ bỏ mô hình này của lý thuyết phê phán/critical theory, càng ngày ông càng đi đến chỗ xem quyền lực giống như nguồn lực hay cơ chế vốn luân chuyển quanh xã hội. Trong khi vẫn xem sự lạm dụng quyền lực là có hại, ông trở nên quan tâm nhiều hơn đến những cơ chế xã hội làm nảy sinh sự lạm quyền đó, và sự đối phó vẫn tồn tại để thách thức nó. Vì thế, ở một cấp độ nào đó, sự thực thi quyền lực trở thành cái gì đó đòi hỏi sự hợp thức hoá/legitimation, và bằng cách đó dẫn đến không chỉ ở chỗ người phụ thuộc vào quyền lực chấp nhận rằng người nắm quyền có quyền sử dụng nó, mà còn ở chỗ những lý lẽ biện minh cho quyền đó phải là những lý lẽ tốt và thích hợp. Nếu sự hợp thức hoá chỉ là tra vấn về sự chấp nhận phổ biến thì sự biện minh cho sự thực thi quyền lực ắt hoàn toàn tuỳ theo từng trường hợp đặc thù. (Vì thế, nếu nô lệ tin rằng, theo các quy tắc của sự chinh phục quân sự, khi thua trận và trở thành tù nhân họ sẽ mất quyền tự do, thì sự chiếm hữu nô lệ trong trường hợp đó được biện minh). Habermas tìm kiếm các quá trình biện minh có thể được khiến cho trở nên phổ quát. Do vậy, nếu sự nô dịch hoá con người là sự xâm phạm quyền con người thì ngay cả nếu chính ta chấp nhận thân phận nô lệ của mình thì nó vẫn sai. Đó chính là dòng tư tưởng dẫn Habermas đến lý thuyết về đạo đức học diễn ngôn/discourse ethics và cả những thảo luận sau này của ông về pháp luật/law.

Ở cấp độ thứ hai, quyền lực là cơ chế cho phép vận hành các xã hội phức hợp. Ở vai trò phương tiện điều hướng phi biểu trưng, nó cung cấp các quy tắc theo đó các hệ thống phân cấp xã hội được tổ chức và theo đó người dân trong hệ thống phân cấp này hành động. Luận điểm của Habermas là quyền lực, cùng với phương tiện điều hướng phi biểu trưng khác chẳng hạn như tiền tệ/money, có thể tạo điều kiện dễ dàng cho việc tổ chức các hoạt động xã hội phức hợp hơn là có thể đạt được bởi các cá nhân sử dụng chỉ khả năng của họ để giao tiếp với người khác. Chẳng hạn, bộ máy quan liêu lớn gồm có, ít nhất, một loạt các phòng ban được xác định một cách khá chính xác, cùng với các quy tắc điều khiển các mối quan hệ giữa các phòng ban. Như thế, nếu viên quản lý cấp cao muốn thực hiện mục tiêu nhất định nào đó, anh/chị ta rất có thể phải ủy thác nhiệm vụ (và quyền lực để hoàn thành nhiệm vụ đó) cho các cấp dưới. Đến lượt các cấp dưới có thể phải uỷ thác cho các cấp dưới nữa, và v.v. Hành động uỷ thác được quy định bởi các quy tắc vốn xác định các phòng ban của những người quản lý có liên quan. Quan trọng nhất là nó đòi hỏi rất ít sự giao tiếp riêng tư giữa các phòng ban. Cũng không cần bất cứ nghi ngờ nào về những gì phòng ban khác có thể cũng như phải làm. Quyền ủy thác cũng không cần được biện minh (vì nó được sắp xếp theo bản chất của phòng ban), và v.v. Vì thế, quyền lực đơn giản hoá tương tác xã hội, kỳ cùng đến điểm quan trọng là các hành động của các cá nhân khác hoàn toàn có thể dự đoán được. Tôi ra lệnh, và bạn tuân thủ. Không liên quan đến chuyện liệu bạn có muốn hay bạn có đồng ý không. Bạn chỉ cần làm công việc của mình.

Mối quan tâm của Habermas—và đây chính là khám phá của ông trong nghiên cứu về sự thuộc địa hoá thế giới đời sống/colonisation of the lifeworld—là những sự thực thi quyền lực như vậy, ngay cả khi ban đầu chính đáng (theo nghĩa những lý do tốt có thể được đưa ra cho sự tồn tại của phòng ban, và sự bổ nhiệm cá nhân nhất định cho phòng ban đó), vẫn có thể làm xói mòn sự giao tiếp và vì thế, một lần nữa, xói mòn sự tự trị. Đúng ra là vì chúng được tổ chức một cách có hệ thống, tức những công việc quản trị dựa trên lý tính công cụ. Đây lại là một điểm quan trọng rằng, bất cứ ai trong phạm vi một bộ máy quản trị thường liên hệ với cấp trên hay cấp dưới của họ bằng tính khả dĩ tiên liệu của hành động. Các quyết định có thể được thảo luận bằng sự đóng góp hiệu quả đối với sự hiện thực hoá dự án đã đưa ra. Nhưng, nếu sự quản trị không đòi hỏi hành động giao tiếp và lý tính giao tiếp/communicative reason, thì những triển vọng cho việc tranh biện giá trị của dự án tổng thể bị kiềm chế nghiêm trọng. Sự gắn kết của quản trị đối với lý tính công cụ làm cho nó vô cảm đối với những loại thách thức và sự biện minh vốn là điển hình của lý luận giao tiếp. Vì thế, chẳng hạn, các cơ quan hoạt động nghệ thuật ở Anh một thời gian dài than phiền về sự khó khăn khi biện minh cho hoạt động của họ trước chính phủ, cũng như việc nhận được tài trợ phù hợp và các hỗ trợ khác của nhà nước. Trong lĩnh vực của họ, họ có thể biện minh cho các tác phẩm nghệ thuật bằng giá trị nội tại và các khả năng biểu đạt của nó (và vì thế, có thể bằng yêu sách về giá trị hiệu lực/validity claim đối với sự trung thực/truthfulness). Mặt khác những việc quản trị của chính phủ sẽ tìm kiếm những biện minh có tính định lượng có thể được sử dụng để chứng minh sự sử dụng hiệu quả của các khoản tài trợ. Vì thế, các dự án nghệ thuật được biện minh không phải bởi các giá trị nghệ thuật mà bởi sự đóng góp của chúng vào du lịch và cán cân thanh toán, hay sự đóng góp vào các dự án phục vụ giáo dục và xã hội. Các hoạt động không thể tự biện minh như thế, nghĩa là tự biện minh một cách công cụ, sẽ bị loại trừ và sự tiếp tục tồn tại của chúng bị đe dọa.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Macht /f =, Mächte/

f =, Mächte 1. súc mạnh, lực lượng, súc lực; mit aller - hết súc, tận lực, cật lực, chí chết; die bewaffnete Macht các lực lượng vũ trang; 2. chính quyền, quyền lực, quyền bính, quyền hành; quyền thế, ảnh hưỏng, uy tín, uy thé, thế lực; 3. (chính trị) chính thể, thế lực; die Macht in den Händen giữ chính quyền trong tay; die Macht an sich (A) reißen giành chính quyền; 4., nưóc, quốc gia; die verbündeten Mächte các nưdc đồng minh.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Macht /f/CH_LƯỢNG/

[EN] power

[VI] công suất; luỹ thừa

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Macht

[VI] Quyền lực

[DE] Macht

[EN] power

Metzler Lexikon Philosophie

Macht

in alltäglichen, politischen und sozialen Zusammenhängen gebrauchter Begriff für die Möglichkeit, Wirkungen hervorzubringen. Etymologisch verweist der Begriff auf die einem tätigen Subjekt zugeschriebene Möglichkeit (indogerm. magh = mögen, vermögen). Der große Bedeutungsumfang des Wortes macht die weite Verbreitung des bezeichneten Phänomens bewusst; M. ist – wie Max Weber gesagt hat – »amorph«, d.h. sie liegt allen konkreten Gestaltungen der Wirklichkeit voraus.

(1) Antike Wurzeln in Ethik und Metaphysik. In dieser Allgemeinheit ist M. einer der tragenden Begriffe des metaphysischen Denkens. So versteht Platon unter »dynamis« nicht nur die Wirkungskraft des Menschen, sondern die Eigenschaft des Seienden schlechthin, Seiendes hervorzubringen. Und da sich Seiendes nur bestimmen lässt, sofern es überhaupt etwas bewirkt, kommt Platon zu der Feststellung, Seiendes als solches sei nichts anderes als »dynamis« (Soph. 247 e). Aristoteles nimmt den Begriff in diesem Sinn auf und macht ihn, indem er ihn als dasjenige präzisiert, was Bewegung und Veränderung ermöglicht, neben Wirklichkeit (energeia) und innerer Bestimmtheit (entelecheia) zum dritten Elementarbegriff seiner Metaphysik. In dieser Funktion wird der Machtbegriff zu einem festen Bestandteil der metaphysischen Tradition. – Dabei wird die Beziehung des metaphysischen Begriffs zu den menschlichen Handlungsmöglichkeiten nicht aufgekündigt. So bezeichnet Platon auch die Tugenden als die M. (dynamis), die in der Lage ist, politische Ordnung aufzubauen und zu bewahren (Pol. 477c/d). Aristoteles grenzt die Tugend als Habitus (hexis) ausdrücklich von den noch nicht festgelegten Vermögen (dynameis) ab, betont aber gerade damit die Beziehung der M. zur leibseelischen Grundausstattung des Menschen (Eth. Nik. 1105 b 20/1106 a 6). In diesem Sinn fordert die antike Ethik die Abstimmung des individuellen Strebens auf die jeweils gegebenen Handlungsmöglichkeiten. Dieses Zusammenspiel individual-ethischer und politischer Momente hat ein metaphysisches Fundament in der Beziehung von M. und Wirkung überhaupt. Es ist zugleich an die Erfahrung von Freiheit geknüpft. Wenn die Erfahrung von M. mit der von Handlungsmöglichkeiten identisch ist, dann gehört die Freiheit notwendigerweise hinzu.

(2) Theologische Anstöße und metaphysische Folgen. Wichtige Impulse bekommt die auf den Machtbegriff abstellende Seins- und Bewegungslehre mit der Erschließung des Alten und des Neuen Testaments durch die christliche Theologie. In beiden Büchern ist es die überlegene Allmacht, die das Wesen Gottes ausmacht. Nur wird dieses Wesen nicht als rein begriffliches Prinzip, sondern als Charakter des persönlichen, lebendigen Gottes aufgefasst. Dies erlaubt, auch die Ermächtigung der Geschöpfe durch den Schöpfer sowie seine Vollmacht für seinen Sohn nach dem Vorbild der Natur zu verstehen. Es ist Augustinus, der diese sowohl auf Gott wie auf den Menschen bezogene Konzeption der M. philosophisch präzisiert: Er zeigt, dass wirkliche M. (potentia) nicht nur Stärke im physischen Sinn, sondern auch geistige Kraft einschließt und somit nur in Verbindung mit einem entsprechenden Wissen zu denken ist. Da dies ein Wissen von der Angemessenheit der Machtanwendung sein muss, steht die M. auch in Beziehung zur Gerechtigkeit. Sie ist überdies nicht ohne einen mit ihr verbundenen Willen zu denken, zu dem wiederum Freiheit gehört. Mit Blick auf die göttliche M. stellt Augustinus somit eine begriffliche Beziehung zwischen M., Wille, Freiheit und Vernunft heraus, die den Maßstab für die Beurteilung menschlicher M. abgibt und eine klare Grenzziehung gegenüber dem bloßen Einsatz physischer Kraft, der Gewalt (violentia), erlaubt. – Die scholastische Philosophie sucht insbesondere die Beziehung zwischen M. und Vernunft in einem nicht personal gefassten Seinsprinzip zu begreifen, um dies, im Anschluss an Aristoteles, auf alles Seiende übertragen zu können. M. wird damit vornehmlich auf die Bedeutung einer realen Möglichkeit, einer Seinsmächtigkeit (potentia), reduziert, und es ist nötig, sie von der bloßen (logischen) Möglichkeit (possibilitas) abzugrenzen. Mit dieser ontologischen Konnotation geht der Machtbegriff auch in die philosophischen Systeme der Neuzeit ein. Dabei wird stets die Beziehung der M. zu der Begriffstrias von Vernunft, Freiheit und Wille zum Problem, nicht zuletzt durch die von der spätscholastischen Theologie betriebenen Exposition der Einheit von Wille und M., die auch von Luther, mit Rückgriff auf Augustinus, hervorgehoben wird. Spinoza versucht diese Verbindung in seiner auf der Gleichung von Substanz und M. basierenden Lehre zwar zu leugnen, rückt aber gerade durch die notwendige Verknüpfung von M. und Affekt das, was man mit dem Begriff des Willens fasst, ins Zentrum des Machtbegriffs. Leibniz legt die begriffliche Verknüpfung von M. (puissance), Erkenntnis (connoissance) und Wille (volonté) seiner Monadologie ausdrücklich zugrunde; Konzeptionen, die nur auf die »nackte Macht« (potentia nuda) der bloßen Möglichkeit bauen, hält er für unzureichend. Einen wirklichen Grund kann nur eine Substanz enthalten, die eine »aktive Kraft« (vis activa) einschließt. Diese Kraft ist für Leibniz ein »Mittleres zwischen dem Vermögen zu handeln und der Handlung selbst«. Damit ist das Paradigma, dem – mehr oder weniger deutlich – alle metaphysischen Machtkonzeptionen folgen, genannt: es ist das Modell der menschlichen Handlung. Der Begriff der M. bezeichnet somit die Handlungsdisposition einer Substanz, die sich nur nach Art eines menschlichen Individuums begreifen lässt. Die Konzeption metaphysischer M. erweist sich damit als eine ins Große gerechnete Handlungsmacht des Menschen. Sie bezeichnet alles das, was durch Handlungen möglich scheint. – In diesem Sinn ist der metaphysische Machtbegriff sowohl bei Locke wie auch bei Kant und Hegel konzipiert. Sogar Schelling bleibt ihm in seiner Lehre von den allgegenwärtigen »Potenzen« nahe. Und Nietzsche, der mit seiner Fragment gebliebenen Lehre vom »Willen zur M.« die größten Anstrengungen unternimmt, sowohl vom tradierten Begriff des Willens wie auch von einer nach Art eines Vermögens gedeuteten M. loszukommen, muss schließlich eingestehen, dass er über einen Anthropomorphismus nicht hinauskommt. In dem Bemühen, den Positivismus seines Jahrhunderts zu überwinden, sucht Nietzsche nach der »inneren Qualität« der von den Physikern nur äußerlich vermessenen Kraft. Der »Wille zur M.« soll das kennzeichnen, was die physikalische Kraft »von innen her« ausmacht. Damit ist der wohl einzige Weg benannt, auf dem Machterfahrung überhaupt möglich ist. Diesen Weg zu beschreiben heißt (mit Nietzsches Worten): »sich der Analogie des Menschen zu Ende bedienen«.

(3) Macht als politischer und sozialer Begriff. So bleibt der metaphysische Machtbegriff auch in seiner extremsten Fassung dem Ausgangspunkt bei Platon verbunden. Zugleich wird erkennbar, wie nahe er dem vorherrschenden sozialen und politischen Verständnis des Phänomens bleibt. M., so lautet die berühmte Definition Max Webers, ist »jede Chance, innerhalb einer sozialen Beziehung den eigenen Willen auch gegen Widerstreben durchzusetzen, gleichviel worauf diese Chance beruht«. Die M. wird hier nicht nur in ihrem Ursprung mit Wille und Freiheit (Chance) verknüpft, sondern ist auch in ihren Wirkungen auf das Feld menschlichen Handelns beschränkt. Darin ist sie dann aber die sui generis bewegende Kraft, nämlich die dem Modus menschlichen Handelns entsprechende »soziale Energie« (B. Russell). C. F. von Weizsäcker sieht in ihr ein »Humanum« und zwar die spezifisch politisch-soziale Ausprägung dessen, was im Bereich der Physik »Masse« und »Energie« genannt wird. Sie ist die Kraft, als die sich der Mensch im Verhältnis zu seinesgleichen begreift. So verstanden kann auf sie in gesellschaftlichen Zusammenhängen schlechterdings nicht verzichtet werden. Wenn die Politik jener Bereich ist, in dem Menschen allein durch ihren bewussten Zusammenschluss etwas erreichen, dann muss die M. zu den elementaren Kategorien einer jeden Politik gehören. – Dies war selbst für die großen Repräsentanten des politischen Denkens so offenkundig, dass sie der M. als Grundbedingung alles politischen Handelns wenig Aufmerksamkeit geschenkt haben. Zwar schildert bereits Thukydides die Vielfalt der Formen der M., und er lässt auch keinen Zweifel an ihrer grundlegenden Bedeutung, aber erst der Thukydides-Übersetzer Thomas Hobbes legt die fundierende Gleichung zwischen Mensch und M. frei. Im Leviathan sucht er zu zeigen, wie aus der vereinigten M. (power) einzelner Individuen ein Staat entstehen kann. Alle Antriebe des Menschen lassen sich nach Hobbes auf das »Verlangen nach M.« zurückführen, ein Verlangen, das unersättlich fortschreiten kann, wie bereits die zirkuläre Definition der M. als »Übergewicht der M. des einen über einen anderen« erkennen lässt. Nur im Staat kann das ruhelose Machtstreben des Menschen begrenzt werden: Unter der schlechthin überlegenen M. des Souveräns finden die einzelnen Machtkalküle keineswegs bloß in ein äußeres Gleichgewicht zueinander: der innerstaatliche Machtausgleich kommt ursprünglich nur durch den (inneren) Anspruch auf Selbsterhaltung und Machtsicherung eines jeden Einzelnen zustande.

In diesem Punkt stimmen alle politischen Vertragslehren mit dem Modell des Leviathan überein: Die M. des Staats entsteht aus der Akkumulation der Handlungsmacht einzelner Subjekte. Folglich weisen beide die gleichen Strukturelemente auf: Sie müssen einen Willen unterstellen, beanspruchen Freiheit und kommen, wenn sie sich als M. durchhalten wollen, ohne einsichtige Regeln – d.h. ohne Berufung auf Vernunft – nicht aus. Wenn die politische Theorie des 20. Jh. die Politik als einen Prozess der »Machtbildung und Machtverteilung« (H. D. Laswell; R. A. Dahl) definiert oder wenn die M. zum »Wesen aller staatlichen Gemeinschaften« (H. Arendt) erklärt wird, dann sind diese Strukturmerkmale explizit und implizit vorausgesetzt. – Diesen »klassischen« Begriff der M. zieht die soziologische Systemtheorie in Zweifel. Sie stellt das zugrundeliegende Verursachungsmodell infrage und möchte die damit verknüpfte Annahme eines wirkenden Subjekts verabschieden. In diesem Sinn wird M. von N. Luhmann als »codegesteuerte Kommunikation« bezeichnet, auf deren »katalytische Funktion« in Gesellschaften gar nicht verzichtet werden kann. Denn die M. ist – durch »Generalisierung von Symbolen« – ein elementares Verständigungsmedium, das es, ebenso wie Geld und Liebe, erlaubt, Kontingenz zu reduzieren. Damit ist gesagt, dass M. die Berechenbarkeit sozialer Prozesse erhöht und – auf ganze Systeme bezogen – Zeit spart. Entsprechende Leistungen werden der M. auch von Autoren zugeschrieben, die mit semiotischen und strukturalistischen Verfahren arbeiten. M. Foucault z.B. sieht in ihr eine bloße Beziehungsgröße, die weniger die Funktion hat, Verbindungen zu schaffen als Distanz herzustellen. Mit Blick auf die Tradition des Begriffs aber ist bemerkenswert, dass weder Foucault noch Luhmann ohne Bezug zum handelnden Subjekt auskommen: Beide konzipieren die M. als eine Größe, die das Ich bzw. den Willen hervorbringt; insofern heben beide den klassischen Begriff nicht auf, sondern legen ihn nur anders aus.

Macht und ihre Kritik. Im öffentlichen Bewusstsein und in der literarischen Kritik wird die M. weitgehend negativ bewertet. Sie gilt als »dämonisch« (G. Ritter) oder gar als »an sich böse« (J. Burckhardt). In diesen Urteilen spiegeln sich historische Erfahrungen mit jeweils bestimmten politischen, ökonomischen und sozialen M.n, die sich gegen Recht und besseres Wissen brutal behaupten. Aus solchen Erfahrungen wird nicht selten ein Urteil gegen die politische Welt als ganze abgeleitet; die M. erscheint dann als Repräsentant einer von Grund auf verderbten Realität, der man die Utopie einer von M. und Herrschaft freien Zukunft entgegenhält. Die negativen historischen Erfahrungen führen i.d.R. aber zu einer anderen Konsequenz: dass nämlich korrupten, rechtswidrigen M.n mit Kritik und Widerstand begegnet werden muss. Eine solche Konsequenz ist allerdings mit einer prinzipiellen Ablehnung der M. nicht mehr vereinbar, denn sie beansprucht selbst M., um sich gegen den Widersacher zu behaupten. In diesem Fall wird nicht die M. als solche abgelehnt, sondern nur ihr Missbrauch durch bestimmte M.haber. Nicht wenige der negativen Urteile über die M. beruhen freilich auf der Schwierigkeit, Gewalt und Herrschaft von der M. zu unterscheiden. M. äußert sich in beidem: In der Gewalt jedoch in einer amorphen, meist physisch destruktiven Form; in der Herrschaft hierarchisch geordnet und in der Regel unter (tatsächlich bestehender oder angenommener) Zustimmung der Betroffenen. – In der M. selbst steckt allerdings insofern eine Gefahr, als sie zur Verselbständigung tendiert und die Menschen mit einer gewissen Zwangsläufigkeit verführt, sich über alle Widerstände hinwegzusetzen. Vor allem in großer Machtfülle liegt der Reiz zu ihrem rücksichtslosen Gebrauch. Deshalb aber auf M. insgesamt zu verzichten, bedeutete die Freigabe gesellschaftlichen Handelns überhaupt. Da diese Konsequenz weder praktisch möglich noch wirklich erwünscht ist, bleiben nur die zwar stets unvollkommenen, aber immer noch verbesserungsfähigen traditionellen Mittel gegen die Gefahren der M., nämlich institutionelle Kontrolle und persönliche Verantwortung. Die Grenzen der M. werden also durch Recht und Moral bestimmt, die freilich, um wirksam zu sein, selbst der M. bedürfen. So gesehen kann M. nur durch M. begrenzt werden. Die M. ist daher ebenso wenig absolut wie ihre Kritik.

VG

LIT:

  • H. Arendt: Macht und Gewalt. Mnchen 1970
  • W. Blockmanns: Geschichte der Macht in Europa. Vlker Staaten Mrkte. Frankfurt 1998
  • P. Bourdieu: Die Intellektuellen und die Macht. Hamburg 1991
  • Ders.: Die verborgenen Mechanismen der Macht. Hamburg 1992 W. Detel: Macht. Moral, Wissen. Foucault und die klassische Antike. Frankfurt 1998
  • R. A. Dahl: Die politische Analyse. Mnchen 1973
  • K. G. Faber/Chr. Meier/K.H. Ilting: Art. Macht/Gewalt. In: Geschichtliche Grundbegriffe. Bd. 3. Stuttgart 1982
  • M. Foucault: Mikrophysik der Macht. Berlin 1976
  • V. Gerhardt: Vom Willen zur Macht. Berlin/New York 1992
  • Ders.: Macht und Metaphysik. In: Nietzsche-Studien 10/11. 1981/82
  • A. Honneth: Kritik der Macht. Reflexionsstufen einer kritischen Gesellschaftstheorie. Frankfurt 1989
  • P. Imbusch (Hg.): Macht und Herrschaft. Sozialwissenschaftliche Konzeptionen und Theorien. Opladen 1998
  • A. Kenny: Will, Freedom and Power. Oxford 1975 P. Kondylis: Macht und Entscheidung. Die Herausbildung der Weltbilder und die Wertfrage. Stuttgart 1984 H. D. Lasswell: Power and Society. Yale V. P. 1950
  • M. Michael: Geschichte der Macht. 3 Bde. 1994/1998
  • M. Weber: Methodologische Schriften. (Hg.) J. Winckelmann. Frankfurt 1968. S. 336.