TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

modalität

dạng thức

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

phương thức

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

biến thế

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

biến tưdng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

biến hình

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bién dạng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

biến chúng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

phương pháp

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cách thúc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

phương sách

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

phương kế

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình thái.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tình thái

 
Từ điển triết học Kant

điều kiện

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hoàn cảnh

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tình huống

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hình thái

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

modalität

modality

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học Kant

Đức

modalität

Modalität

 
Metzler Lexikon Philosophie
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Modalität /[modali'te:t], die; -, -en/

(meist Pl ) (bildungsspr ) điều kiện; phương thức; hoàn cảnh; tình huống;

Modalität /[modali'te:t], die; -, -en/

(Logik) dạng thức;

Modalität /[modali'te:t], die; -, -en/

(Sprachw ) hình thái;

Từ điển triết học Kant

Tình thái [Đức: Modalität; Anh: modality]

-> > Phạm trù, Phán đoán, Tất yếu, Khả thể, Bảng các phạm trù,

Tình yêu [Hy Lạp: eros/agape; Latinh: amor; Đức: Liebe; Anh: love]

Xem thêm: Niềm tin, Hy vọng, Hôn nhân, Tốn trọng (sự, lòng), Tinh dục Với tư cách là “đức hạnh thần học” thứ ba và lớn nhất trong các “đức hạnh thần học” thời Trung đại (xem Aquinas, 1952, II, I, 62), khái niệm tình yêu theo sau một lịch sử dài và phức tạp, kết hợp những yếu tố eros của triết học Hy Lạp, tức sự ham muốn người khác dựa trên sự thiếu thốn, với agape của Kitô giáo, tức tình yêu dành cho đồng loại và thậm chí cả kẻ thù (xem Nygren, 1982). Trong khi Kant không quan tâm trực tiếp đến khái niệm tình yêu, và chỉ bàn về nó một cách hời hot, thì khung phân tích của ông tuy vậy đã kết hợp cả phưong diện eros lẫn phưong diện agape.,

Khi bàn về tình yêu như một cảm xúc, sự bàn luận của ông thường trình bày thiên về khía cạnh sắc dục (erotic), và quan tâm đến việc khép bản năng tính dục vào kỷ luật. Trong PĐ, sự trì hoãn quan hệ tình dục là một trong bốn bước, nhờ đó “lý tính” phân biệt con người với con vật. “Từ chối là thứ công cụ mang lại cho những kích thích cảm giác thuần túy một phẩm chất lý tưởng, và dần dần chỉ ra con đường để đi từ ham muốn thuần túy mang tính động vật đến tình yêu” (PĐ tr. 117 và tr. 224).

Đặc điểm mấu chốt trong bước chuyển này là việc ban cho ham muốn cảm giác những phẩm chất lý tính của lòng tôn trọng. Việc ghép đôi này giữa tình yêu với lòng tôn trọng cũng xuyên suốt việc nghiên cứu nặng về phưong diện “tận hiến” (agapic) hon đối với tình yêu người bên cạnh trong quyển SHHĐL. Trong quyển này, tình yêu “thu hút” con người đến với nhau, và lòng tôn trọng giữ cho họ có khoảng cách: việc thực thi nghĩa vụ tình yêu khiến người khác phải có bổn phận đối với tôi, trong khi nghĩa vụ tôn trọng khiến tôi phải có bổn phận “tự giữ mình trong những ranh giới của chính mình để không lấy đi bất kỳ điều gì từ giá trị mà người khác, với tư cách một con người, được phép khoác lên chính họ” (SHHĐL, tr. 450, tr. 244).

Bàn luận của Kant về tình yêu mang tính Tin Lành giáo một cách điển hình qua việc nhấn mạnh ý hướng hon các việc làm - theo đó, ba “nghĩa vụ của tình yêu” (“lòng nhân từ, biết ổn và cảm thông”) là những trạng thái tinh thần chứ không phải những việc làm. Sự nhấn mạnh này cũng thấm nhuần nhận định của ông về hai điều răn của Chúa Jesus đối với việc “yêu Thiên Chúa” và “yêu người bên cạnh của ngưoi như chính ngưoi” (Matthew 22: 38-9). Tình yêu trước được phiên dịch thành “động Cổ của hành động”: “Thực hiện nghĩa vụ của ngưoi mà không có động Cổ nào khác ngoài sự quý trọng vô điều kiện với chính nghĩa vụ, tức là, yêu Thiên Chúa”. Còn tình yêu sau thì cũng vậy: “Hãy tăng tiến hạnh phúc [của đồng loại của ngươi] do thiện chí trực tiếp, chứ không phải được rút ra từ những động cơ trục lợi cho bản thân” (TG, tr. 160-1, tr. 148).

Cũng giống như nhiều khái niệm khác của Kant, những bình luận của Kant về tình yêu đã kích thích rất nhiều tư tưởng, nhưng rất nhiều trong số ấy lại đối lập với các ý tưởng của ông. Thế hệ các triết gia Đức ngay sau Kant đã quan tâm sâu sắc tới triết học về tình yêu. Hegel, trong Những tác phẩm thẩn học thời kỳ đẩu của mình, đã nỗ lực hợp nhất tình yêu với lòng tôn trọng trong khái niệm về sự “thừa nhận lẫn nhau”. Novalis và Hölderlin đã thử nối kết tình yêu sắc dục (erotic) với tình yêu tận hiến (agapic), trong khi Friedrich Schlegel thì khám phá các phương diện của tình yêu sắc dục trong tiểu thuyết Lucinde (1799) của mình. Tuy nhiên, trong các triết học về tình yêu này và cả sau đó, ảnh hưởng của Kant không mấy đáng kể và chỉ còn là gián tiếp.

Phan Thị Vàng Anh dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Modalität /f =, -en/

1. biến thế, biến tưdng, biến hình, bién dạng, biến chúng; 2. phương pháp, cách thúc, phương sách, phương thức, phương kế; cách; 3. (văn phạm) [tính] hình thái.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Modalität /f/C_THÁI/

[EN] modality

[VI] dạng thức (cách thu nhận sản xuất tượng trưng)

Metzler Lexikon Philosophie

Modalität

Allgemein versteht man unter einer M. die nähere Bestimmung eines Sachverhalts hinsichtlich der Art und Weise (des ›Modus9) seines Bestehens. Bei Kant treten neben die M.en als Kategorien reiner, d.h. nicht-empirischer Verstandesbegriffe, die M.en der Urteile. Diese Doppelfunktion der M.en führt neben der Unterscheidung von Notwendigkeit, Dasein und Möglichkeit in der Kategorie der M.en zu der parallelen Einteilung in apodiktische, assertorische und problematische Urteile (Kant: KrV A 70 ff.). – In einer eher aristotelischen Tradition werden in der modernen Modallogik als sog. alethische M.en Notwendigkeit und Möglichkeit betrachtet. Diese werden aufgefasst als wechselseitig definierbare, nicht-wahrheitsfunktionale Aussageoperatoren (»es ist notwendig der Fall, dass A« – □A–; »es ist möglicherweise der Fall, dass A« – ◊A–). In der Regel können die zahlreichen Ausdrucksweisen für diese M.en in natürlichen Sprachen mit Hilfe der entsprechenden Aussageoperatoren umschrieben werden. So kann der Satz »es könnte regnen« als synonym mit »es ist möglicherweise der Fall, dass es regnet« gelten. Auch sog. Dispositionsprädikate (»beschreibbar«, »brennbar«) gestatten die Umschreibung durch modale Aussagen. Aufgrund des induktiven Formelaufbaus treten in der Modallogik auch sog. iterierte M.en auf, z.B. »es ist notwendig, dass es möglich ist, dass A«. Verallgemeinernd wird deshalb in der Modallogik eine M. definiert als endliche (möglicherweise leere) Folge 1, ..., an> , so dass ai für 1 ≤ i ≤ n entweder der Negationsoperator ¬ oder einer der Modaloperatoren ◊, □ ist. Eine M. heißt affirmativ, wenn sie eine gerade Anzahl von Negationsoperatoren enthält, andernfalls wird sie als negativ bezeichnet. Für die Modallogik bedeutsam ist die Auffindung der in einem modallogischen System Σ äquivalenten M.en. Zwei M.en m1, m2 heißen äquivalent in Σ, wenn für eine beliebige Aussage A m1A ↔ m2A in Σ beweisbar ist. Zwei M.en werden als verschieden bezeichnet (in Σ), wenn sie nicht äquivalent sind in Σ. Die Anzahl der in einem modallogischen System Σ verschiedenen M.en wird als die Zahl der M.en von Σ bezeichnet. z.B. beträgt die Zahl der M.en in dem Lewis’schen System S5 sechs, da alle affirmativen M.en jeweils ihrer innersten äquivalent sind.

Neben den alethischen, auf Wahrheit bezogenen M.en werden u. a. auch temporale, d.h. zeitbezogene M.en, epistemische, auf Wissen und Erkennen bezogene M.en sowie deontische, auf Geboten-, Verboten- und Erlaubtsein gerichtete M.en betrachtet. Einfache temporale M.en sind »es ist immer der Fall, dass A«, »es ist manchmal der Fall, dass A«. Unter Beachtung der zeitlichen Ordnung lassen sich anspruchsvollere temporale M.en wie »es war der Fall, dass A«, »es wird der Fall sein, dass A« definieren. Den alethischen M.en der Notwendigkeit und Möglichkeit entsprechen die deontischen M.en »es ist geboten, dass A« sowie »es ist erlaubt, dass A«. Die formale Darstellung dieser M.en entspricht weitgehend der der alethischen M.en. In der modalen Prädikatenlogik entsteht die philosophisch wichtige Unterscheidung zwischen de re und de dicto M.en. Während de dicto Notwendigkeit die notwendige Wahrheit einer Aussage behauptet (»es ist notwendig, dass A«), wird mit de re Notwendigkeit einem Gegenstand eine notwendige Eigenschaft zugeschrieben (»x ist derart, dass es notwendigerweise F ist«). Formal ergeben sich de re M.en durch Quantifikation in offene Formeln, die einen Modaloperator enthalten. Sie führten zu einer Wiederbelebung der Essentialismusdebatte um die Frage nach notwendigen Eigenschaften.

UM