TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

intuition

trực quan

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

1. Trực giác

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

lực trực giác

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thấy minh bạch

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thấu hiểu.

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

. trực giác

 
Từ điển toán học Anh-Việt

Trực quan

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

trực giác

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

trực giác.

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

tri giác

 
Từ điển triết học HEGEL

cảm giác và cái cảm tính

 
Từ điển triết học HEGEL
forms of intuition

mô thức của trực quan

 
Từ điển triết học Kant
axioms of intuition

tiên đề của trực quan

 
Từ điển triết học Kant

Anh

intuition

intuition

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển toán học Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

perception

 
Từ điển triết học HEGEL

sensation and the sensory

 
Từ điển triết học HEGEL
forms of intuition

forms of intuition

 
Từ điển triết học Kant

forms

 
Từ điển triết học Kant

intuition

 
Từ điển triết học Kant
axioms of intuition

axioms of intuition

 
Từ điển triết học Kant

axioms

 
Từ điển triết học Kant

intuition

 
Từ điển triết học Kant

Đức

intuition

Anschauung

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

wahrnehmung

 
Từ điển triết học HEGEL

empfindung und das sinnliche

 
Từ điển triết học HEGEL
forms of intuition

formen der anschauung

 
Từ điển triết học Kant

formen

 
Từ điển triết học Kant

anschauung

 
Từ điển triết học Kant
axioms of intuition

axiomen der anschauung

 
Từ điển triết học Kant

axiomen

 
Từ điển triết học Kant

anschauung

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

Trực quan, Tri giác, Cảm giác và cái Cảm tính [Đức: Anschauung, Wahrnehmung, Empfindung und das Sinnliche; Anh: intuition, perception, sensation and the sensory]

Những chữ đáng chú ý nhất trong lĩnh vực này là:

1. Anschauung (trực quan) nguyên là chữ dùng cho thị giác, bắt nguồn từ động từ anschauen (trực quan, nhìn) và schauen (nhìn). Nó thường có nghĩa là “quan niệm” hay “quan điểm” (do đó có chữ Weltanschauung [thế giới quan]). Tuy nhiên, chữ này được Eckhart du nhập vào tiếng Đức triết học khi ông dịch chữ La-tinh contemplatio, theo nghĩa là hoạt động hay kết quả của việc chiêm ngưỡng (suy ngẫm, nhìn ngắm) cái gì đó, nhất là cái vĩnh hằng và thần linh. Trực quan ngụ ý sự tiếp xúc trực tiếp, không suy lý với ĐỐI TƯỢNG, và việc CHỦ THỂ được hấp thụ hoàn toàn vào trong đối tượng ấy.

Trong triết học thời sau, trực quan có hai nghĩa rộng: một là, sự chiêm ngưỡng trí tuệ, chẳng hạn chiêm ngưỡng các Ý NIỆM của Plato (theoria trong tiếng Hy Lạp nghĩa là “chiêm ngưỡng, TƯ BIỆN”); hai là, ấn tượng cảm tính hay cảm giác. Kant lập luận rằng mọi trực quan của con người đều là cảm tính (sinnlich): tư tưởng cần có đối tượng, và đối tượng chỉ có thể “được mang lại” bằng trực quan. Nhưng GIÁC TÍNH cùng với các KHÁI NIỆM của nó chỉ có thể “suy tưởng” các trực quan và đối tượng, chứ không mang lại chúng. Kant cho phép có khả thể cho một trực quan trí tuệ (intellektuelle Anschauung), tức mang lại một đối tượng mà không cần sự trự giúp của cảm giác. Nhưng trực quan trí tuệ, cao điểm là sáng tạo ra đối tượng chỉ bằng cách suy tưởng về nó, theo Kant, thì chỉ dành riêng cho Thượng Đế.

Việc Kant nỗ lực giới hạn trực quan vào cái cảm tính đã bị thách thức theo hai hướng. Một là, những nhà phê phán như Hamann và Herder đã công kích sự phân chia rạch ròi của ông giữa trực quan và khái niệm. Goethe nói về một sự “trực quan (Anschauen) về bản tính sáng tạo bên trong” sẽ nắm bắt được cái “nguyên mẫu” hay Ý NIỆM (Intuitive Judgment [Năng lực Phán đoán Trực quan], 1817). Trực quan như thế sẽ lĩnh hội một hiện tượng như một cái toàn bộ cùng với những tư ổng tác qua lại của các bộ phận của nó. Nó không bỏ qua các khái niệm, mà chỉ tưong phản với tư duy phân tích khái niệm mà thôi. Hai là, Pichte cho rằng triết gia trở nên có ý thức về cái Tôi thuần túy bằng một hành vi trực quan trí tuệ. Schelling tiếp tục ý tưởng này, và khi cái TUYỆT ĐỐI của ông không còn là cái Tôi và trở thành một sự ĐỒNG NHÂT trung tính, thì, ông tin rằng, cái tuyệt đối được nắm bắt bởi trực quan trí tuệ.

Trực quan cảm tính, theo Hegel, bao hàm sự biến đổi những gì được cảm giác (das Empfundene) thành một đối tượng bên ngoài (BKT III, §448A). NGHỆ THUẬT trình bày cái tuyệt đối trong HÌNH THỨC của trực quan cảm tính, tưong phản với HÌNH TƯỢNG/BIỂU TƯỢNG (Vorstellung' ), vốn là hình thức của TÔN GIÁO, và với Tư TƯỞNG, là hình thức của TRIẾT HỌC. Trong những tác phẩm thời đầu, nhất là cuốn KBFS, Hegel gắn bó với ý tưởng của Schelling về một trực quan “siêu nghiệm” hợp nhất những cái ĐỐI LẬP, chẳng hạn như hợp nhất Tự NHIÊN và TINH THẨN. Thế nhưng, về sau ông lại phê phán trực quan trí tuệ, vì nó có tính TRựC TIẾP, và, khác với NHẬN THỨC khái niệm, nó không phoi bày những tiền giả định và cấu trúc lô-gíc của đối tượng. Trực quan, thậm chí là trực quan kiểu Goethe, dù cho phép ta nhìn sự vật như một cái toàn bộ, chứ không phân mảnh, chỉ có thể là khúc dạo đầu cho nhận thức (BKTIII, §449A). Tuy nhiên, Lô-gíc học của Hegel, vì nó là tư tưởng không-thường nghiệm về các tư tưởng, có phần tưong đồng với trực quan trí tuệ theo nghĩa của Kant. Khác với Kant, Hegel không băn khoăn gì về việc đồng hóa con người với THƯỢNG ĐỂ.

2. Empfindung (cảm giác, TÌNH CẢM) gần với trực quan cảm tính. Nhưng nó mang hoi hướng chủ quan hon và không nhất thiết chứa đựng sự ý thức về một đối tượng. Vì vậy trong BKTIII, cảm giác thuộc về “giác hồn’, còn trực quan thuộc về “tinh thần lý thuyết”

3. Sinn có một dãy nghĩa rộng, đại thể nhưng không hoàn toàn giống với nghĩa của “sense” trong tiếng Anh: (a) “cảm nhận”, “cảm thức” (chẳng hạn về âm nhạc, về lịch sử, hay về sự hài hước); (b) năm “giác quan”, “tâm trí” (chẳng hạn một ý vừa nảy ra trong “tâm trí” tôi; mất trí, hay tỉnh trí; chúng tôi nhất trí), (c) “nghĩa” của một chữ, một nhận định, một tác phẩm nghệ thuật, một hành động, của cuộc đời, V.V., (Sinn theo nghĩa cuối này thì chủ quan hon Bedeutung “ý nghĩa”: Sinn là nghĩa của một chữ trong một ngữ cảnh, chứ không phải (những) nghĩa trong Từ điển). Tính từ sinnlich và danh từ trừu tượng Sinnlichkeit (do Wolff dùng để dịch chữ La-tinh sensibilitas, sensualitas) chỉ tưong ứng với một số nghĩa của Sinn: những gì là sinnlich thì có thể tri giác được bằng các giác quan, tức “cảm tính”, “cảm giác”. Nếu áp dụng cho người hay một phưong diện của con người, nó có nghĩa là “bị những ham muốn cảm tính hay ham muốn thể lý, nhất là ham muốn nhục cảm, thống trị”. Hegel thường sử dụng das Sinnliche (cái cảm tính) tương phản với “BIỂU TƯỢNG”, “tư tưởng”, v.v. Cảm năng (Sinnlichkeit/Anh: sensibility) là: (a) năng lực thu nhận những kích thích cảm giác từ các đối tượng, nhờ đó, theo quan niệm của Kant, các trực quan (và qua đó các đối tượng) được mang lại cho ta; (b) KINH NGHIỆM của ta hay bản tính của ta, trong chừng mực chứa đựng kinh nghiệm cảm giác và tình cảm, ham muốn thể lý, v.v. tương phản với tư tưởng, LÝ TÍNH, v.v.

Vì cảm tính và những từ phái sinh của nó tương phản với “tư tưởng”, và tư tưởng có thể hoặc thuần túy hoặc chứa đựng chất liệu cảm tính, nên cảm tính trong Hegel có thể biểu thị hoặc chất liệu cảm tính thô hoặc chất liệu cảm tính đã được khái niệm hóa. Tương ứng, übersinnlich (siêu-cảm tính) có thể có nghĩa hoặc những gì hoàn toàn siêu việt khỏi cái cảm tính và chỉ duy tư tưởng mới có thể tiếp cận được hoặc, như trong HTHTT III, cái cảm tính đã được khái niệm hóa đến mức đã trở thành HIỆN TƯỢNG (Erscheinung). (Phát biểu của Hegel rằng “cái siêu-cảm tính là CHÂN LÝ hay sự thật của cái cảm tính và cái có thể tri giác, tức là hiện tượng”, cũng phụ thuộc vào sức mạnh của tiếp đầu ngữ über-, nghĩa là “vượt qua, vượt khỏi”, nhưng cũng nghĩa là “quá mức”, chứ không phải “không-”, hay “phi-”).

4. Wahrnehmung (tri giác) là Ý THỨC cảm tính về các đối tượng bên ngoài (và có nghĩa phái sinh là ý thức cảm tính về các trạng thái và tiến trình bên trong của ta). (Theo nghĩa thông thường, nó còn có nghĩa là “quan sát”, vì thế là “quan tâm, bảo vệ” (chẳng hạn, bảo vệ lợi ích của mình), và wahrnehmen có nghĩa là “quan sát, tận dụng, nắm lấy (chẳng hạn, nắm lấy một cơ hội), bảo vệ, thực hiện (một vai trò hay một chức năng), cũng như “tri giác”). Vì vậy, tương phản với cái cảm tính, nơi Hegel, cảm giác, và trực quan (theo nghĩa của Kant), về bản chất có một yếu tố khái niệm. Đối với Hegel, trong khi sinnliche Gewissheit (sự XÁC TÍN cảm tính) là sự lĩnh hội (Auffassen) vô-khái niệm về những cái đặc thù cảm tính, thì tri giác (Wahrnehmung) xem chúng như cái PHỔ BIỂN, như những sự VẬT có các thuộc tính phổ biến (HTHTT, I, II). Ông cho rằng Wahrnehmung [tri giác] nắm lấy cái đúng thật hay nắm lấy sự vật như chúng đang tồn tại trong chân lý (tức cái phổ biến), và rút động từ này (wahrnehmen/tri giác), từ wahr (đúng thật/chân lý) và nehmen (nắm lấy). Nhưng suy diễn này là không đúng: wahr- trong wahrnehmen không có quan hệ từ nguyên với wahr (đúng thật/chân lý) nhưng có quan hệ với chữ aware (có ý thức) trong tiếng Anh.

Khó khăn trung tâm trong tư tưởng của Hegel là ở điều này: phải chăng ông, giống như Kant, tin rằng thế giới và kinh nghiệm của ta về thế giới chứa đựng một yếu tố cảm tính không thể quy giản vào tư tưởng hoặc được rút ra từ tư tưởng? Có một số lý do để nghĩ rằng ông không tin như thế: (1) Ông thường xuyên công kích học thuyết nhị nguyên của Kant. (2) thần học tương ứng với hệ thống của ông chứa đựng việc Thượng Đế sáng tạo thế giới từ hư vô, chứ không như trong tư tưởng Hy Lạp và Do Thái giáo thời đầu, là sự tạo hình cho một sự hỗn độn nguyên thủy; điều này hàm ý rằng tư tưởng thuần túy không cần bổ sung bằng cái cảm tính hay chất liệu nào hết. (3) Ta không thể rút ra một yếu tố cảm tính thô, không bị tiêm nhiễm bởi khái niệm (HTHTT I), hoặc một nhân tố vật chất thuần túy vô HÌNH THỨC được. Tuy nhiên, Hegel không đơn giản cho rằng tư tưởng và cái cảm tính (hay hình thức và CHÂT LIỆU) là bện chặt vào nhau không gỡ ra được: Lô-gíc học nỗ lực tách tư tưởng (và cái hình thức liên quan) ra khỏi cái cảm giác (và cái chất liệu liên quan). Câu hỏi làm thế nào tư tưởng thuần túy quan hệ được với cái cảm tính (hay với Tự NHIÊN) không được ông trả lời thỏa mãn. (Sự thật là, việc một yếu tố thuần túy cảm tính không thể được rút ra một cách độc lập với tư tưởng không có nghĩa rằng không có một yếu tố như thế).

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển triết học Kant

Trực quan [Đức: Anschauung; Anh: intuition]

Xem thêm: Tiên nghiệm, Cảm năng học, Tiên đề (các), Mô thức, Giác quan bèn trong, Toán học, Thụ nhận (tính, sự), Giác quan, Cảm năng, Không gian, Thời gian, Đối tượng siêu nghiệm,

Trong truyền thống Aristoteles, quan hệ giữa nghiên cứu về nhận thức dựa trên trực quan và nhận thức dựa trên chứng minh trong Phân tích pháp II (Posterior Analytics) với nghiên cứu về tri giác khả niệm và tri giác cảm tính (noesis và aisthesis) trong Bàn vê linh hồn (De anima) của Aristoteles gây cho ta khá nhiều lúng túng. Trong Phân tích pháp II, Aristoteles yêu sách rằng “các tiền đề tiên khởi” của nhận thức khoa học được lĩnh hội một cách trực quan, và trực quan là “nguồn suối nguyên thủy của nhận thức khoa học” (Aristoteles, 1941, 100b). Sự lĩnh hội trực quan vì thế là có tính trực tiếp, đối lập với nhận thức suy lý, được trung giới của sự chứng minh khoa học. Theo quyển Bàn vê linh hồn, nhận thức nảy sinh từ sự trừu xuất của noeta ra khỏi aistheta, nhưng với điều kiện là các yếu tố cảm tính và khả niệm vốn được suy tưởng một cách biệt lập không tồn tại biệt lập, hay nói như Aristoteles, “miễn sao tâm thức, cái tư duy chủ động tích cực, là những đối tượng suy tưởng của nó” (Aristoteles, 1941, 431b, 18).

Sự lúng túng trước cái truyền thống này là liệu ta phải hợp nhất cả hai nghiên cứu này về sự nhận thức hay không, và nếu thế thì bằng cách nào. Ngoài việc phủ nhận bất cứ mối quan hệ nào giữa chúng, về cơ bản ta có sẵn ba sự lựa chọn. Một đằng là phải nhấn mạnh những yếu tố Platon ở Aristoteles, và đồng nhất nhận thức trực quan trực tiếp với noeta, đằng khác là phải đồng nhất nhận thức trực quan với tri giác cảm tính hay aistheta; trong khi sự lựa chọn thứ ba là phải thiết định một nhóm các đối tượng chiếm một vị trí trung gian giữa noeta và aistheta (xem thêm Wolfson, 1962, Quyển II, tr. 156). Theo cách nói trang trọng, học thuyết của Kant về trực quan được phác thảo trong LA và được khai triển trong PPLTTT có thể được đặt trong khuôn khổ của sự lựa chọn thứ ba, nhưng nhấn mạnh đến tính chất nghịch lý của những đối tượng trung gian như vậy.

Trước Kant, Descartes và Spinoza đã phân biệt triệt để giữa hình thức trực quan và những hình thức khác của nhận thức. Mặc dù Descartes lớn tiếng trong Những quy tắc hướng dẫn trí tuệ (1628) rằng “không thèm chú ý” đến “phương cách mà những thuật ngữ đặc thù đã được sử dụng mới đây trong nhà trường”, nhưng điều được tuyên ngôn gọi là “cách dùng mới của ông về thuật ngữ trực quan thật ra chẳng thoát ly khỏi truyền thống Aristoteles là bao. Ông phân biệt trực quan với “chứng cứ của các giác quan” và định nghĩa nó là một “khái niệm không nghi ngờ được của một trí tuệ rõ ràng và chăm chú chỉ bắt nguồn từ ánh sáng của lý tính mà thôi” (Quy tắc III). Khác với nhận thức diễn dịch, nó là trực tiếp và đơn giản, và được minh họa bởi việc các cá nhân “trực quan về sự kiện là họ đang hiện hữu, và đang suy tưởng”. Trong Đạo đức học (1677), Spinoza đi theo Descartes khi phân biệt ba hình thức của cái biết: nhận thức của tư kiến dựa trên các giác quan và trí tưởng tượng (theo nghĩa rộng từ aistheta của Aristoteles); nhận thức của lý tính dựa trên những ý niệm hay khái niệm chung (noeta); và cuối cùng là nhận thức trực quan trực tiếp về bản chất hình thức của các thuộc tính của Thượng đế và các sự vật nói chung (1985, tr. 475-8).

Cả Descartes lẫn Spinoza đều nghiêng về quan niệm của Platon về nhận thức trực quan, xem trọng nhận thức trực tiếp về lĩnh vực khả niệm hơn là nhận thức được trung giới của các giác quan. Trong Luận văn về giác tính con người, Locke đồng ý rằng nhận thức trực quan không chỉ là trực tiếp mà còn là “sáng sủa nhất và chắc chắn nhất mà thân phận mỏng manh của con người có thể có được” (Locke, 1690, tr. 272). Thế nhưng đối với Locke, nhận thức này được rút ra không phải từ noeta khả niệm, như nơi Descartes và Spinoza, mà từ những đối tượng của tri giác bên ngoài: “Không có cái gì chắc chắn hơn làý niệm mà ta tiếp nhận từ một đối tượng bên ngoài đang ở trong ta: đó là nhận thức trực quan” (tr. 277). Nhận thức này là trực tiếp, nhưng chủ yếu hướng đến aistheta hơn là đến noeta. Khi phê phán Locke trong Luận văn mởi về giác tính con người (hoàn thành năm 1705 nhưng đến năm 1765 mới xuất bản), Leibniz cố gắng dung hòa Descartes và Locke bằng cách đề ra những chân lý trực quan của cả sự kiện lẫn của lý tính (Leibniz, 1765, tr. 361-7), nhưng Christian Wolff, là môn sinh và là người truyền bá học thuyết của ông, lại giới hạn nhận thức trực quan vào sự trực quan trực tiếp về sự hoàn hảo của lý tính. Đến lượt nó, quan niệm này lại bị nhà “lạc giáo” của học thuyết Wolff là A.G. Baumgarten phê phán, khi ông ủng hộ nhận thức trực quan về sự hoàn hảo lý tính bằng con đường của tri giác cảm tính, một hình thức nhận thức mà ông gọi là “mỹ học”.

Học thuyết của Kant về trực quan phải được định vị bên trong nghị trình do Aristoteles xác lập. Ông vẫn nhất quán với truyền thống Aristoteles về tính chất trực tiếp, không trung giới của trực quan, nhưng đã xác lập cái nét riêng của ông về nó ở chỗ đã bác bỏ sự đối lập của nhận thức trực tiếp giữa noeta của các nhà duy lý với aistheta của các nhà duy nghiệm. Trong khi Kant xác định vị trí của trực quan ở cấp độ cảm năng hay aisthesis trong phần “Cảm năng học siêu nghiệm” của quyển PPLTTT (tức là, thấp hon giác tính và lý tính), ông cũng dành cho nó một tính cách mô thức tiên nghiệm, khi xoay xở theo cách này để nhấn mạnh yếu tố cảm tính, trực tiếp trong nhận thức mà không cần theo Locke, và yếu tố mô thức, tiên nghiệm mà không cần theo Descartes. Điều căn bản là phải xác lập sự cân bằng này để thỏa mãn một trong những điều kiện chính cần có để “giải quyết vấn đề chủ yếu của triết học siêu nghiệm: Làm thế nào để những mệnh đề tổng hợp tiên nghiệm có thể có được?” (PPLTTT, B 73). Những phán đoán ấy tổng hợp các khái niệm với các trực quan cảm tính, tức là với những gì tuy có tính chất dị loại với khái niệm, nhưng vẫn có một tính cách khả niệm, tiên nghiệm.

Phần lớn những yếu tố trong học thuyết của Kant về trực quan được trình bày trong §10 quyển LA. Ông bắt đầu bằng cách tuyên bố rằng “Ta không thể trực quan về những gì thuộc về giác tính... việc suy tưởng chỉ có thể có được nhờ các khái niệm phổ biến trong cái trừu tượng chứ không phải nhờ một khái niệm đặc thù trong cái cụ thể’. Ở đây, ông đồng ý với sự phân biệt chính thống giữa nhận thức trực tiếp của trực quan với nhận thức được trung giới của giác tính. Giác tính của con người chỉ có thể vận hành “một cách suy lý nhờ các khái niệm phổ biến”, nhưng với Kant, điều này không loại trừ khả thể của những giác tính và những trực quan được cấu tạo một cách khác. Những trực quan được ông xét trong § 10 này chính là trực quan trí tuệ và trực quan thần thánh, cả hai đều trở lại trong quyển PPLTTT. Trực quan trí tuệ chính là một nhận thức trí tuệ, trực tiếp về những vật-tự-thân hơn là về những hiện tượng trong không gian và thời gian (PPLTTT, B307), trong khi trực quan thần thánh lại mang tính tác tạo, tạo ra những đối tượng mà nó suy tưởng chứ không phải bị kích động một cách thụ động bởi những đối tượng có sẵn theo phương cách của trực quan con người (nt).

Trong câu thứ hai của §10, Kant viết rằng “mọi trực quan của ta bị giới hạn vào một nguyên tắc nào đó của mô thức, và chỉ dưới mô thức này mà sự vật có thể được tâm trí [ta] lĩnh hội một cách trực tiếp, hay được lĩnh hội như là cái cá biệt, và không đơn thuần được quan niệm một cách suy lý nhờ các khái niệm phổ biến”. Với câu này, ông biến trực quan từ một đặc điểm phụ trợ của nhận thức thành một quan năng của nhận thức. Quan năng của trực quan có được một “nguyên tắc nào đó của mô thức” qua đó tâm trí mới có thể lĩnh hội trực tiếp tính cá biệt cụ thể của các sự vật chứ không thâu gồm chúng như là những trường hợp của các khái niệm trừu tượng và phổ biến. Trong câu này, Kant trình bày cái nghịch lý cốt lõi trong nghiên cứu của ông về trực quan: nó lĩnh hội trực tiếp các đối tượng, thế nhưng nó chỉ lĩnh hội nhờ các nguyên tắc mô thức. Tính chất này của trực quan được lặp lại trong PPLTTT: trực quan vừa là “quan hệ trực tiếp” (s/c) với các đối tượng, vừa chỉ diễn ra “trong chừng mực đối tượng được mang lại cho ta” (PPLTTT A 20/B 34).

Trong câu thứ ba của LA §10, những nguyên tắc mô thức của trực quan được lộ diện ra như là không gian và thời gian, rồi chúng được tiếp tục xác định rõ hơn như là những điều kiện “theo đó cái gì đó có thể là một đối tượng của các giác quan của ta”. Cho dù trong LA, Kant liệt kê ra những thuộc tính của không gian và thời gian với tư cách là những trực quan thuần túy - chúng là “đơn nhất”, không phải “bẩm sinh” cũng “không phải được sở đắc”, vừa là những điều kiện của các cảm giác, vừa được những cảm giác ấy kích động thành hành động - ông chưa mạo hiểm đưa ra một sự chứng minh tại sao chúng là những điều kiện cho những đối tượng của các giác quan của ta. Ông chỉ làm điều này trong PPLTTT và SL bằng phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.

Trong phần “Cảm năng học siêu nghiệm” của quyển PPLTTT, Kant phân tích hay tháo rời cảm năng ra thành những yếu tố của nó. Ông đề nghị trước hết ta “tách riêng cảm năng ra khỏi những gì được giác tính suy tưởng bằng các khái niệm” (PPLTTT A 22/B 36). Cảm năng không còn lại gì “trừ trực quan thường nghiệm”, và từ trực quan thường nghiệm, ta lại tách riêng “bất cứ những gì thuộc cảm giác, sao cho không có gì còn giữ lại trừ trực quan thuần túy và mô thức đơn thuần về các hiện tượng”. Những cái này chính là “những mô thức của trực quan cảm tính”, đó là không gian và thời gian. Trong SL, Kant lại luận chứng theo kiểu tổng hợp từ những mô thức của trực quan đến những đối tượng của giác quan. Ông cho rằng các trực quan về các sự vật đang hiện diện không thể có được nếu không có một “cơ sở của quan hệ giữa biểu tượng của tôi với đối tượng” (§9), vốn là cái “đi trước mọi ấn tượng hiện tại qua đó tôi bị kích động bởi các đối tượng”; nếu không có các mô thức tiên nghiệm của trực quan để nối kết cái Tôi và các đối tượng của nó thì ta sẽ chẳng có kinh nghiệm nào về những đối tượng (xem thêm PPLTTT B 132).

Trong PPLTTT, Kant đưa ra những chứng minh về việc tại sao chỉ có không gian và thời gian là các mô thức của trực quan. Chứng minh mà dường như ông thấy rất thuyết phục cho rằng trong khi mọi khái niệm, ngoại trừ không gian và thời gian, đều lấy “cái gì đó có tính thường nghiệm” làm tiền đề, thì không gian và thời gian lại có tính thuần túy và tiên nghiệm: không gian không chiếm lấy một không gian nào và thời gian không chịu một sự biến đổi nào trong thời gian (PPLTTT A 41/B 58). Luận cứ này cũng làm cho vị thế siêu nghiệm của không gian và thời gian có giá trị hiệu lực, cụ thể là: chúng là những điều kiện của kinh nghiệm về không gian và thời gian và không thể được rút ra từ cảm giác hay từ bản tính của bản thể tư duy. Luận cứ này phù hợp với quan niệm được phát biểu trong LA §10 rằng các mô thức của trực quan cung cấp “điều kiện của nhận thức cảm tính” và đi trước nhận thức cảm tính và không được rút ra từ nhận thức cảm tính. Nhưng yêu sách này lại tỏ ra không ổn với quan niệm rằng trực quan là có tính thụ động, rằng “chất liệu của nhận thức” là được mang lại qua các giác quan, và rằng trực quan “chỉ có thể có được bao lâu nó là khả hữu cho cái gì đó kích động giác quan của ta” (sđd.ỵ Trực quan ở đây dường như vừa cung cấp những điều kiện cho cái gì đó kích động cảm năng của ta, vừa bị điều kiện hóa bởi cái gì đó đang kích động nó.

Tính cách nghịch lý của trực quan - như là điều kiện đồng thời bị điều kiện hóa bởi các đối tượng của giác quan - được sử dụng trong LA để ngăn cản việc các noumenon có thể được nhận thức nhờ vào các biểu tượng được rút ra từ các cảm giá”. Nó còn tiếp tục được sử dụng trong PPLTTT để tăng cường sự phê phán đối với những yêu sách rằng không gian và thời gian còn là những gì nhiều hon các mô thức cấu trúc nên trực quan của ta. Sự phát triển sau đã hàm ý sẵn trong sự phân biệt giữa biểu tượng và cảm giác được nói đến trong LA §10, là phần dự đoán sự phân biệt có tính phê phán mấu chốt giữa hiện tượng và cảm giác trong PPLTTT. Những hiện tượng được phân chia thành cảm giác, hay “chất liệu của hiện tượng”, và “mô thức của hiện tượng”, hay không gian và thời gian. Cái sau ở trong trạng thái tiềm tàng, hay nói như Kant là “có sẵn cho các cảm giác một cách tiên nghiệm trong tâm trí” (PPLTTT A 20/B 34), và được kích hoạt bởi cảm giác. Bằng cách này, ý niệm về hiện tượng làm cho các mô thức của trực quan có thể được xem là đi trước cảm giác hay chất liệu của trực quan một cách tiêm năng (nhưng lại đi sau trong hiện thực). Một sự phức tạp hon nữa nảy sinh ở đây, chính là chất liệu của trực quan được trực quan một cách trực tiếp không thể được xét như là những đối tượng tự thân, mà là đã được cấu tạo sẵn như là những hiện tượng, bởi lẽ với Kant đó chính là tiên đề: “Ta trực quan những sự vật không phải là trực quan cái gì nổi tự thân chúng, mà như chúng xuất hiện ra cho ta” (PPLTTT A 42/B 59). Điều này lại có tính chất nghịch lý, vì nó đòi hỏi rằng ta xét trực quan vừa như là nhận thức trực tiếp về các đối tượng, cụ thể là “các sự vật mà ta trực quan”, vừa như là một hiện tượng được trung giới hay “như chúng xuất hiện ra cho ta” (sđd.).

Khi viễn tượng về trực quan chuyển từ mối quan hệ giữa trực quan và các đối tượng của giác quan sang mối quan hệ giữa trực quan và giác tính, một nhóm các nghịch lý tương tự tự biểu hiện ra. Điều quan trọng sinh tử đối với dự án phê phán là các khái niệm của giác tính và các mô thức của trực quan phải được phân biệt với nhau vê loại (generical). Trực quan tương ứng với phương diện “thụ động” hay “thụ nhận” của kinh nghiệm con người, còn giác tính tương ứng với phần đóng góp trong kinh nghiệm ấy bởi sự tổng hợp tích cực, tự khởi của thông giác. Trong khi cả hai phải được phân biệt với nhau một cách nghiêm ngặt, chúng cũng phải được nối kết trong các phán đoán tổng hợp tiên nghiệm. Kant lưu ý điều này trong câu văn ngắn gọn: “Tư tưởng không có nội dung thì trống rỗng, trực quan không có khái niệm thì mù quáng” (PPLTTT A 51/ B 75), từ đó ông kết luận rằng các khái niệm phải được làm cho trở nên khả giác và các trực quan phải trở nên khả niệm mà không cần phải hoán chuyển chức năng cũng như lĩnh vực riêng của chúng [điều này được trình bày trong phần “thuyết niệm thức”, PPLTTT A138/B177],

Những kết quả được trình bày trong phần “Logic học siêu nghiệm” của PPLTTT cho thấy làm thế nào mà aistheta và noeta của truyền thống lại được đưa vào quan hệ mà không buộc cái này phải lệ thuộc cái kia. Theo cách này, triết học phê phán vừa tôn trọng sự phân biệt được tiếp nhận từ truyền thống Arirtoteles, trong khi vừa cải trang lại nó cho phù hợp với một học thuyết về trực quan kết hợp cả phương diện cảm tính lẫn phương diện trí tuệ.

Đinh Hồng Phúc dịch

Mô thức của trực quan (các) [Đức: Formen der Anschauung; Anh: forms of intuition]

Xem thêm: Cảm năng học, mô thức, trực quan, cảm giác, cảm năng, không gian, thời gian,

Trong trong phần đầu cuốn PPLTTT, về “Cảm năng học siêu nghiệm”, trực quan được định nghĩa là mối quan hệ trực tiếp của một phương cách của nhận thức với các đối tượng của nó (A 19/B 33). Sự tác động của trực quan về các đối tượng lên quan năng biểu tượng là cảm giác, và cảm giác này có hai phương diện: chất liệu và mô thức. Chất liệu của trực quan là “hiện tượng tương ứng với cảm giác”, còn mô thức là cái “xác định sự đa tạp của hiện tượng để sự đa tạp này có thể được sắp đặt vào các quan hệ nào đó (A20/B34). Theo một quá trình trừu tượng hóa gồm hai bước: trước hết, cô lập cảm năng ra khỏi giác tính, thứ hai, loại bỏ tất cả những gì thuộc về cảm giác, Kant rút ra “hai mô thức thuần túy của trực quan cảm tính, có vai trò như là các nguyên tắc của nhận thức tiên nghiệm” (A 22/B 36), đó là không gian và thời gian.

Châu Văn Ninh dịch

Tiên đề của trực quan (những) [Đức: Axiomen der Anschauung; Anh: axioms of intuition]

Xem thêm: Loại suy của kinh nghiệm (những), Dự đoán của trỉ giác (những), Phạm trù (các), Phán đoán, Nguyên tắc (các), Lượng, Nhất thể,

Những tiên đề này là một nhóm những nguyên tắc có vai trò như là những quy tắc cho việc sử dụng khách quan các phạm trù về lượng. Mỗi nhóm các phạm trù có những nguyên tắc tương ứng của nó, dùng để xác định các sự vật phải xuất hiện ra trong thời gian như thế nào: những nguyên tắc tương ứng với phạm trù về chất là “những dự đoán của tri giác”; những nguyên tắc tương ứng với các phạm trù về tương quan là “những loại suy của kinh nghiệm”; và những nguyên tắc tương ứng với các phạm trù về tình thái là “các định đề của tư duy thường nghiệm”. Vì kinh nghiệm của ta về thế giới không thể trực tiếp có tính phạm trù, nên ta không thể tổ chức kinh nghiệm về lượng của mình bằng những phạm trù: “nhất thể’, “đa thể” và “toàn thể”; do đó ta cần có những nguyên tắc để làm cho chúng phù hợp với những điều kiện của trực quan hữu hạn.

“Những tiên để’ và “những dự đoán” hình thành nên “các nguyên tắc toán học” đối lập với “các nguyên tắc năng động” của “các loại suy” và “các định đề”. Các nguyên tắc toán học chuyển các phạm trù thành những nguyên tắc tương ứng với sự trực quan những đối tượng trong không gian và thời gian - những đối tượng của lượng có quảng tính và lượng cường độ. Nguyên tắc chủ đạo của các tiên đề, được Kant mang đến cho chúng ta trong PPLTTT, ấn bản A (tr. 162) là: “Mọi hiện tượng, trong trực quan về chúng, là những lượng quảng tính”, và ấn bản B (tr. 202): “Mọi trực quan là những lượng có quảng tính”. Điều này có nghĩa rằng một hiện tượng không thể trở thành một đối tượng của trực quan trừ phi nó có một lượng quảng tính: lượng có quảng tính là một điều kiện của cả kinh nghiệm lẫn của mọi đối tượng của kinh nghiệm. Kant mô tả lượng bằng quá trình vận động từ cái đơn vị hay một “biểu tượng về một bộ phận” qua cái đa thể suốt cả một giai đoạn thời gian, đến khi đạt được cái toàn thể hay một tổng thể vào cuối giai đoạn thời gian. Ông đưa ra ví dụ về việc cấu tạo nên đường thẳng hình học diễn tiến qua thời gian, từ một điểm sang một đa thể các điểm, cho đến một đường thẳng (PPLTTT A 162/B 203).

Cùng với toàn bộ các nguyên tắc của Kant, các tiên đề đảo ngược những thuộc tính mô thức của hữu thể thành những nguyên tắc được xác định về mặt không gian và thời gian của những hiện tượng. Cho nên môn “toán học về không gian (môn hình học)” được đặt cơ sở trên “sự tổng hợp tiếp diễn của trí tưởng tượng tác tạo” (PPLTTT A 162/B 203), là cái diễn tiến từ nhất thể tại một thời điểm, rồi đến cái đa thể, và cuối cùng đến cái toàn thể vào cuối một quãng thời gian. Thậm chí sự duy trì của nhất thể qua thời gian đòi hỏi phải có một sự tổng hợp tiếp diễn, mà nếu không có nó thì nhất thể ắt sẽ chịu một sự thay đổi không thể chấp nhận về chất - nó ắt ngay lập tức không còn tồn tại và biến thành một cái khác. Những đối tượng của môn hình học là sản phẩm của việc vẽ hình này qua thời gian, như là những con số và phép tính cộng số học. Những phép cộng nói lên sự ổn định hay sự biến đổi về lượng được hoàn tất bằng một sự tổng hợp của trí tưởng tượng xuyên qua thời gian.

Kant kết luận bằng tuyên bố rằng “sự tổng hợp về những không gian và thời gian” - sự sản sinh ra lượng có quảng tính qua sự vận động từ nhất thể sang đa thể và đến toàn thể - “là cái làm cho sự lĩnh hội về hiện tượng, cũng như cho mọi kinh nghiệm ở bên ngoài, tức cho toàn bộ nhận thức về đối tượng của kinh nghiệm có thể có được” (PPLTTT A 165/B 206). Sự tổng hợp này làm cho các tiên đề phù hợp với “nguyên tắc phổ biến” của cả bốn nhóm nguyên tắc, nghĩa là: những điều kiện cho kinh nghiệm cũng là những điều kiện cho các đối tượng của kinh nghiệm.

Đinh Hồng Phúc dịch

Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Intuition

Trực quan, trực giác.

Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

trực giác

intuition

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

intuition

[VI] Trực quan

[DE] Anschauung

[EN] intuition

intuition

[VI] Trực quan

[DE] Anschauung

[EN] intuition

Từ điển toán học Anh-Việt

intuition

. trực giác

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

intuition

1. Trực giác, trực quan, lực trực giác, thấy minh bạch, thấu hiểu.