TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

necessity

tất yếu

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

Hàng thiết yếu.

 
Từ vựng kinh tế Anh-Việt

Tất nhiên tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tất nhiên

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tất yếu tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

cần thiết

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

việc tất nhiên<BR>antecedent ~ Tiến hành tất yếu tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tất yếu tính trước khi hành động<BR>consequent ~ Hậu qủa tất nhiên tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tất nhiên tính của hành động đã làm<BR>~ of coaction Tất nhiên tín

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

khả năng/khả thể và bất tất

 
Từ điển triết học HEGEL

khả năng

 
Từ điển triết học HEGEL

khả thể và bất tất

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

necessity

necessity

 
5000 từ vựng thông dụng Anh-Anh
Từ vựng kinh tế Anh-Việt
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

possibility and contingency

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

necessity

Notwendigkeit

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

möglichkeit und kontingenz

 
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển triết học HEGEL

Tất yếu (tính, sự), Khả năng/Khả thể và Bất tất (tính, sự) [Đức: Notwendigkeit, Möglichkeit und Kontingenz; Anh: necessity, possibility and contingency]

Notwendig và Notwendigkeit có nghĩa là “tất yếu” và “tính/sự tất yếu”. Chúng tương phản với möglich (khả năng) và Möglichkeit (tính khả năng/ khả thể), xuất phát từ động từ mögen (có thể, có lẽ, V.V.), và tương phản với Zufall (tính bất tất/ngẫu nhiên), với zufällig (tính từ) và Zufälligkeit (danh từ). Trong triết học phi-Hegel, đại thể, các từ này quan hệ với nhau như sau. Một cái gì đó là khả năng, nghĩa là nó có thể, hoặc không thể là HIỆN THựC (wirklich' ). Nếu nó không là hiện thực, thì nó chỉ là khả năng đơn thuần mà thôi. Nếu là hiện thực, nó có thể là bất tất (nghĩa là nó có thể trở thành hiện thực hoặc không hiện thực) hoặc tất yếu (nghĩa là nó không thể không hiện thực). Tuy nhiên, những gì là tất yếu thì không phải lúc nào cũng hiện thực: cái gì đó có thể là một ĐIỂU KIỆN tất yếu (tức không thể thiếu được) cho cái khác, chẳng hạn cho chân lý của một định lý hay cho hiện thực của sự việc, nhưng nó chưa được hiện thực hóa. Cách Hegel dùng những chữ này chịu ảnh hưởng từ việc Aristoteles phân biệt giữa những gì là hiện thực (energeiai) tương phản với những gì chỉ đơn thuần tiềm năng (dunamei). Ông khảo sát sự tất yếu, v.v. rất dài trong KHLG. Mô tả ngắn hơn trong BKTI §§143-9 là như sau:

1. Hegel bắt đầu với khả năng [khả thể] hình thức (hay lô-gíc). Theo Lô-gíc học của Wolff về thời gian, cái gì đó là khả năng hình thức, nếu nó không chứa đựng MÂU THUẪN nào hết. Những gì là khả năng thường được đánh đồng với những gì có thể suy tưởng được. Ví dụ của Hegel là: có khả năng là mặt trăng sẽ rơi xuống trái đất tối nay; có khả năng là vua Hồi giáo sẽ trở thành giáo hoàng (BKTI, §143A).

Khác với những nhà lô-gíc học chính thống vốn tin rằng, chẳng hạn, câu “cái này vừa vuông vừa tròn” là một bất khả thể, Hegel khẳng định rằng mọi thứ đều có thể là khả năng hình thức. Có ba lý do cho điều này:

(a) Tuyên bố rằng cái gì đó là khả năng hình thức thì đã hàm chứa việc TRỪU TƯỢNG HÓA một thực thể ra khỏi những hoàn cảnh hiện thời của nó (chẳng hạn làm ngơ sự thật về mặt trăng là xét về mặt lô-gíc nó chẳng thể rơi xuống trái đất được). Người tuyên bố rằng không thể có cái gì đó vừa vuông vừa tròn là người không trừu tượng hóa đầy đủ. Vì lẽ, cho dù nó là vuông trong hiện thực, thì vẫn có khả năng nó sẽ trở thành tròn.

(b) Vì thế Hegel quan tâm đến tính khả năng của các sự kiện hay sự việc hơn là của các MỆNH ĐỂ.

(c) Như ví dụ của ông cho thấy, ông quan tâm đến các khả năng tương lai: lúc này thì nó vuông, nhưng có khả năng sẽ trở nên tròn.

Không những mọi vật đều là khả năng, mà ngược lại, vì bất kỳ vật gì CỤ THỂ cũng chứa đựng sự ĐỐI LẬP và mâu thuẫn (chẳng hạn VẬT CHẤT vừa có lực hút vừa có lực đẩy, BKTI §143A), nên mọi thứ cũng đều là bất khả về hình thức. Do đó, khả năng hình thức, theo quan niệm của Hegel, là một khái niệm trống rỗng độc đáo.

2. Các nhà lô-gíc học chính thống (ví dụ Kant) có một khái niệm về tính tất yếu hình thức phối hợp với với khái niệm về tính khả năng [khả thể] hình thức: cái tất yếu hình thức là cái gì không thể không tồn tại, hay sự phủ định của nó là bất khả về hình thức. Nhưng việc Hegel tin rằng mọi vật đều là khả năng hình thức đã khiến ông không quan niệm như vậy. Vì thế, ông tiếp tục đi tới khái niệm về tính hiện thực hình thức, tức khái niệm về hiện thực không theo nghĩa ưa thích của Hegel, mà theo nghĩa là một cái đang tồn tại hay đang hiện hữu một cách đơn giản, tương phản với cái đơn thuần là khả năng. Cái hiện thực hình thức là cái bất tất (Zufälliges): tức cái gì có thể có mà cũng có thể không có. Do đó, việc cái bất tất là cái hiện thực chỉ là vấn đề ngẫu nhiên (Zufall). Nhưng khái niệm về tính ngẫu nhiên (Zufälligkeit) thì phức hợp: nó tương phản với những gì là bản chất, tất yếu hay có mục đích, nhưng nó cũng gợi ra sự phụ thuộc vào cái gì đó khác: “nói chung cái ngẫu nhiên là cái gì có cơ SỞ [lý do] tồn tại của nó không ở trong bản thân nó mà ở trong cái KHÁC” (BKT I, §145A). Hegel suy ra rằng cái bất tất không đơn giản là một hiện thực TRựC TIẾP, mà còn đóng vai trò làm khả thể hay điều kiện cho một hiện thực mới. (Ở đây, cũng như ở những chỗ khác, Hegel khai thác động từ voraussetzen (Anh: “to presuppose”) có nghĩa là TIỀN GIẢ ĐỊNH, nhưng nghĩa đen là “THIẾT ĐỊNH trước”: cái bất tất được thiết định bởi cái gì đó khác, nhưng là được thiết định trước hay được tiền giả định).

3. Các điều kiện (Bedingungen) cho cái gì đó và sự tương tác giữa chúng là cái thực tồn (reale), chứ không chỉ là khả năng hình thức của nó. Chỉ là khả năng hình thức khi bảo rằng cần có một pho tượng, tức làm cho khối cẩm thạch chưa thành hình này phải là, hay phải trở thành một pho tượng; nhưng chỉ khi nhà điêu khắc tác động lên cẩm thạch bằng cái đục của mình, thì đây là khả thể có thật hay khả thể hiện thực (reale) của bức tượng. Tuy vậy, khả thể có thật của cái gì đó cũng là hiện thực có thật của nó, vì “khi mọi điểu kiện đều có mặt, thì sự VIỆC (Sache) phải trở thành hiện thực” (BKTI, §147). Nhưng nó không chỉ là hiện thực; nó còn là tất yếu. Đây là sự tất yếu tương đối (hay giả thiết), tất yếu trong quan hệ với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, vì sự việc xuất đầu lộ diện của sự vật từ những điều kiện của nó bao hàm sự VƯỢT BỎ những điều kiện ấy, tức sự thải hồi Sự TRUNG GIỚI thành tính trực tiếp, nên nó cũng là sự tất yếu TUYỆT ĐỐI hay vô-điều kiện. Kant đã phủ nhận khả thể của bất kỳ cái gì tuyệt đối tất yếu trong thế giới hiện tượng, nhưng Hegel lý giải lại khái niệm về sự tất yếu vô-điều kiện, sao cho nó được minh họa bằng bất kỳ thực thể tự túc tự tồn tương đối nào đã hấp thu các điều kiện cho sự xuất hiện của mình: một tác phẩm nghệ thuật, một SINH THỂ hữu cơ, một con người, một NHÀ NƯỚC, v.v.

Mô tả của Hegel nhằm mục đích không những áp dụng cho sự xuất hiện của các thực thể trong thế giới mà còn áp dụng cho NHẬN THỨC của con người. Thế giới trình hiện cho ta vô số sự bất tất thường nghiệm. Những cái ấy tạo nên các điều kiện cho hoạt động của nhà khoa học tự nhiên, nhưng nhà khoa học tự nhiên không đơn giản chấp nhận chúng như chúng đang tồn tại: bằng quan sát và thí nghiệm, nhà khoa học chiết ra những đặc tính chung hay BẢN CHÂT của chúng và trình bày bản chất bằng các ĐỊNH LUẬT phổ quát vốn không chứa đựng những thuật ngữ thường nghiệm cấp thấp, chẳng hạn như “đá”, mà chỉ chứa đựng những thuật ngữ khái quát cao hơn như “vật thể’, “sự hút”, “sự đẩy”. Rồi cấp độ cao hơn nữa, Lô-gíc học Hegel, dù bị quy định bởi các bất tất thường nghiệm cũng như bởi các kết quả của các khoa học tự nhiên và các khoa học khác, vẫn trừu tượng hóa khỏi các điều kiện này và vận hành ở cấp độ TƯ TƯỞNG thuần túy. Ở cấp độ ấy, Hegel tin rằng, nhiều trong số các kết quả của các khoa học vốn thoạt đầu có được một cách thường nghiệm có thể tỏ ra là tất yếu (BKTI, §12). (Theo Hegel, Lô-gíc học không chứa đựng sự bất tất: bất kỳ phạm trù nào được mang lại thì đều có duy nhất một phạm trù đi sau nó).

Tuy nhiên, Hegel tin rằng có một yếu tố không thể gạt bỏ được của tính bất tất trong thế giới, không những trong Tự NHIÊN (là nổi, chẳng hạn, số lượng các giống vẹt là bất tất và phải được chấp nhận một cách đơn giản, chứ không được suy diễn hay được giải thích), mà cả trong LỊCH SỬ, NGHỆ THUẬT, và PHÁP QUYỂN. Điều này đáng nghi vấn vì một số lý do:

1. Khái niệm về sự bất tất là không rõ ràng: phát biểu rằng cái gì đó là bất tất có thể có nghĩa là (a) nó là vấn đề ngẫu nhiên đơn thuần, khiến cho không có lý do gì hết cho nó; (b) có một lý do cho nó (vì sau cùng cái bất tất “có cơ sở [lý do] tồn tại của mình... ở trong cái khác”), nhưng ta không thể nào tiếp cận được lý do ấy; (c) lý do của nó có thể tiếp cận được bằng các khoa học tự nhiên, nhưng triết học không thể chỉ ra hiện tượng là tất yếu và tiên nghiệm.

2. Cũng mù mờ không kém là khái niệm về việc “vượt qua” sự bất tất (überwinden, BKTI, §145A). Nếu tính bất tất về số lượng loài vẹt không thể được vượt qua, thì “vượt qua” phải có nghĩa là “giải thích”, hoặc theo nghĩa là chỉ ra rằng nếu cho trước những sự kiện khác (không-bất tất) nào đó, thì số lượng có thể không thể ít hơn hay nhiều hơn 193 chẳng hạn, hoặc theo nghĩa chỉ ra rằng 193 loài vẹt phục vụ MỤC ĐÍCH nào đó theo cách mà không có con số nào khác làm được. Nhưng theo các nghĩa khác của “vượt qua sự bất tất”, chẳng hạn trừu tượng hóa khỏi các loài vẹt và rồi tiến hành Lô-gíc học, hoặc làm cho chúng phục vụ mục đích cao hơn nào đó bằng cách, chẳng hạn, ăn chúng hay nhồi bông và đặt vào bảo tàng, ta có thể dễ dàng vượt qua tính bất tất của chúng. Các mô tả trong KHLG và BKT. I không biện biệt đầy đủ giữa các phương cách khác nhau để vượt qua tính bất tất.

3. Lô-gíc học của Hegel ngụ ý rằng tính bất tất, giống như các phạm trù khác, phải được hiện thân trong thế giới. Nhưng ông không đưa ra được mô tả thỏa mãn nào về (a) đường ranh giới được vạch ra giữa cái bất tất và cái không-bất tất; (b) tại sao nó phải được vạch ra tại điểm này chứ không phải tại điểm khác; hay (c) làm thế nào sự hiện hữu của những bất tất đơn thuần lại tương thích với các đặc tính khác của tư tưởng của ông, chẳng hạn như thuyết hữu thần triệt để của ông hay việc ông phủ nhận mọi CHẤT LIỆU hay NỘI DUNG vô-hình thức riêng lẻ.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển triết học Kant

Tất yếu (tính, sự) [Đức: Notwendigkeit; Anh: necessity]

Xem thêm: Tất nhiên, Phạm trù (các), Nhân quả (tính), Diễn dịch (sự), Định đề của tư duy thường nghiệm (những), Bảng các phạm trù, Giá trị hiệu lực,

Tất yếu là phạm trù thứ ba về tình thái, được rút ra từ phán đoán tình thái thứ ba, hay phán đoán tất nhiên, vốn tương ứng với định đề thứ ba của tư duy thường nghiệm. Kant gán cho các phán đoán tình thái “một chức năng hoàn toàn đặc thù” nhằm xác định “giá trị của hệ từ” trong một mệnh đề trong mối quan hệ với “tư duy nói chung” (PPLTTT A 74/B 100). Một mệnh đề như: “A là nguyên nhân của B” có thể được hiểu một cách nghi vấn (problematically) là “A có thể là nguyên nhân của B”, hoặc một cách xác định (assertorically) là “A là nguyên nhân của B”, hoặc một cách tất nhiên (apodeictically) là “A phải là nguyên nhân của B”. “Chức năng đặc thù” của các phán đoán tình thái có những hàm ý đáng kể đối với các phạm trù được rút ra từ chúng, nhất là đối với phạm trù về sự tất yếu. Trong bảng các phạm trù, các nhóm tình thái không xác định một đối tượng - điều này chỉ có thể có được ở các nhóm lượng, chất và tương quan - nhưng chúng lại xác định phương cách mà các đối tượng được xác định về mặt phạm trù, về khả thể, về hiện thực, hoặc là về tất yếu. Phạm trù tất yếu do đó có ý nghĩa đặc biệt, bởi lẽ cùng với tính phổ quát, nó xác định tính chất của nhận thức tiên nghiệm.

Phạm trù tất yếu đặc biệt có vấn đề trong quan hệ với phạm trù thứ hai về tương quan, tức là sự tương quan giữa nguyên nhân và kết quả.

Trong SL, Kant có nói đến sự thách thức được Hume đặt ra khi chứng tỏ “một cách không thể bác bỏ” rằng lý tính không thể chứng minh sự nối kết tất yếu giữa nguyên nhân và kết quả (Lời tựa). Kant đáp trả sự thách thức này bằng cách chứng minh rằng phạm trù nguyên nhân và kết quả không được rút ra từ kinh nghiệm, mà nó là một điều kiện tiên nghiệm của kinh nghiệm. Điều này đã được chỉ ra bằng hai “tiêu chuẩn” của nhận thức tiên nghiệm, tức là “tính tất yếu và tính phổ biến chặt chẽ” (PPLTTT B 4); theo đó, phạm trù nguyên nhân và kết quả phải được cho thấy là có giá trị hiệu lực một cách tất yếu và phổ biến để kinh nghiệm được coi là khả hữu. Các tiêu chuẩn này được mở rộng sang các phạm trù khác và cũng như sang bất cứ một phán đoán thuần túy tiên nghiệm nào, kể cả phán đoán luân lý và phán đoán thẩm mỹ. Thế nhưng với tư cách là một phạm trù, bản thân sự tất yếu phải được cho thấy là có tính tất yếu, và ta có thể đạt được điều này, Kant nói, bằng cách chứng minh rằng “mọi cái tất yếu bao giờ cũng có một điều kiện siêu nghiệm làm cơ sở” (PPLTTT A 106). Điều kiện này chính là “thông giác siêu nghiệm” hay “ý thức nguyên thủy thuần túy và bất biến” có tính thống nhất bảo đảm cho sự tổ chức kinh nghiệm bằng các phạm trù.

Các vấn đề về mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính nhân quả đã biểu hiện rõ trong nghịch lý thứ ba của PPLTTT, tức nghịch lý đối lập tính nhân quả của tự nhiên với tính nhân quả của sự tự do. Sự tất yếu của tính nhân quả tự nhiên dường như ngầm ý một sự phủ nhận sự tự do, hay tính nhân quả của tự do, một sự phủ nhận sẽ có những hậu quả nghiêm trọng đối với triết học thực hành của Kant. Vì thế, ông giải quyết nghịch lý (Antinomie) này bằng cách phân biệt giữa sự tất yếu của tính nhân quả tự nhiên và sự tất yếu của tính nhân quả tự do. Tính nhân quả của tự do có cái tất yếu riêng của nó, thể hiện hiển nhiên khi so sánh các mệnh lệnh thực hành với nhau. Các mệnh lệnh giả thiết, vốn được đưa ra trong những quy tắc của tài khéo và những lời khuyên của sự khôn ngoan, đều có một sự tất yếu liên quan đến phương tiện cần thiết để đạt được những mục đích nào đó. Ngược lại, mệnh lệnh nhất quyết lại có sự tất yếu tuyệt đối xuất phát từ tính cách vô điều kiện của quy luật luân lý.

Đinh Hồng Phúc dịch

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

necessity

Tất nhiên tính, tất nhiên, tất yếu tính, tất yếu, cần thiết, việc tất nhiên< BR> antecedent ~ Tiến hành tất yếu tính, tất yếu tính trước khi hành động< BR> consequent ~ Hậu qủa tất nhiên tính, tất nhiên tính của hành động đã làm< BR> ~ of coaction Tất nhiên tín

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Notwendigkeit

necessity

Từ vựng kinh tế Anh-Việt

Necessity

Hàng thiết yếu.

Đây không phải là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong kinh tế học hiện đại, nhưng nếu sử dụng, là để đề cập tới một loại hàng hoá có độ co giãn thu nhập của cầu nhỏ hơn 1.

5000 từ vựng thông dụng Anh-Anh

necessity

That which is indispensably requisite to an end desired.