Triết học [Đức: Philosophie; Anh: philosophy]
Xem thêm: Lịch sứ triết học, Siêu hình học, Hệ thống,
Kant đưa ra một số cách nhìn nhận về triết học, trong đó, phần được bàn kỹ nhất xuất hiện trong PPLTTT, CSSĐ và L. Mặc dù mọi định nghĩa triết học của ông đều có tính hình thức - liên quan tới khái niệm, các đối tượng, loại hình, nội dung và câu hỏi của nó - chúng luôn đi liền với một tham chiếu đến triết học đương thời hoặc triết học Hy Lạp cổ đại. Các định nghĩa triết học được phát triển trong PPLTTT tại trang A 838/B 866, là có tính luận chiến chống lại quan niệm theo kiểu Wolff về triết học; định nghĩa đưa ra trong CSSĐ tham chiếu sự phân chia triết học của “người Hy Lạp cổ đại” thành vật lý học, đạo đức học và logic học; trong khi định nghĩa về triết học trong L lại được định vị theo một lịch sử chung về triết học đi từ những người Hy Lạp tới “kỷ nguyên phê phán”. Thật vậy, với Kant, khái niệm triết học, về bản chất có tính lịch sử. Theo ông, nó dựa trên một sự phân biệt giữa (a) triết học là “một ý niệm đơn thuần về một môn khoa học khả hữu, chưa tồn tại in concreto (cụ thể) ở đâu, không ai sở hữu và không thể học hay thậm chí không thể nhận diện được; và (b) sự triết lý, hay sự tập luyện sử dụng năng lực lý luận, phù hợp với những nguyên tắc phổ quát của nó, như trong nhiều nỗ lực hiện có trong triết học” (PPLTTT A38/B866).
Đối với khái niệm về triết học, trong PPLTTT, Kant phân biệt giữa các khái niệm học thuật trường ốc và khái niệm toàn hoàn vũ. Khái niệm đầu, Kant nói “phổ biến cho tới nay”, qua đó, ám chỉ quan niệm triết học theo kiểu Wollf đang thống trị, coi nó là “một hệ thống tri thức mà ta cố cải tiến để trở thành một khoa học... [và] hậu quả là chỉ lấy sự hoàn hảo vê mặt logic của nhận thức làm mục đích” (PPLTTT A 838/B866). Còn khái niệm toàn hoàn vũ về triết học thì rộng hơn và “luôn tạo ra nền móng đích thực cho danh hiệu “triết học”, nhất là khi triết học được nhân cách hóa và được hiện thân bằng hình tượng lý tưởng của “triết gia” (A 338/ B866). Nó bao gồm “khoa học về mối quan hệ giữa mọi nhận thức với các cứu cánh cơ bản của lý tính con người” (A 839/B 867) hay “là điều mà ai ai cũng nhất thiết phải quan tâm”. Trong khái niệm sau về triết học, “triết gia” là “người ban bố luật lệ cho lý tính con người” và việc ban bố luật lệ hay “triết học” có hai đối tượng: Tự nhiên và Tự do, hay “những gì đang là” và “những gì phải là” (A840/B868).
Sự phân chia các đỗi tượng của triết học ra thành Tự nhiên và Tự do tương ứng với sự phân chia triết học ra thành Vật lý học và Đạo đức học trong Lời tựa của cuốn CSSĐ, trừ việc ở đó, chúng được kết nối bằng một sự phân chia thứ ba là logic học. Dư âm của sự phân chia này là rất rõ rệt trong cách phân loại triết học ở cuốn PPLTTT, coi nó là môn Dự bị hay “Phê phán”, “nghiên cứu về quan năng của lý tính trong mọi nhận thức thuần túy tiên nghiệm của nó, và “Siêu hình học” hay hệ thống của lý tính thuần túy chia thành Siêu hình học về tự nhiên và Siêu hình học về đức lý” (A 841/ B 869). Siêu hình học về tự nhiên và Siêu hình học về đức lý tương ứng với những cách sử dụng lý tính thuần túy theo cách “tư biện” hoặc “thực hành”. Cách sử dụng tư biện bao hàm “các nguyên tắc của lý tính thuần túy “sử dụng trong nhận thức lý thuyết về mọi sự vật”, và cách sử dụng thực hành bao hàm các nguyên tắc tiên nghiệm xác định và tạo cho mọi hành vi của chúng ta tính chất tất yếu” (A 841/B869). Tuy nhiên, giao cắt với sự phân biệt này là một hệ thống phân loại khác, là triết học thường nghiệm và triết học thuần túy, một bên bao hàm nhận thức được rút ra từ các nguyên tắc thường nghiệm, còn bên kia bao hàm nhận thức rút ra từ lý tính thuần túy, và, chỉ có loại sau mới đúng thật là triết học. Trong cuốn PPLTTT, Kant còn đưa ra một sự phân biệt nội tại ngay trong phạm vi Siêu hình học về tự nhiên; ông miêu tả Siêu hình học tự nhiên như là Siêu hình học theo nghĩa hẹp, bao gồm (a) Triết học siêu nghiệm làm việc với giác tính và lý tính tương ứng với bản thể học và (b) Tự nhiên học của lý tính thuần túy tương ứng với tự nhiên. Ngay sau khi tạo ra sự phân biệt này, Kant miêu tả hệ thống siêu hình học bằng các thuật ngữ truyền thống bao hàm Bản thể học, Tự nhiên học, Vũ trụ học, và Thần học, trong đó, Tự nhiên học được chia ra thành Vật lý học thuần lý và Tâm lý học thuần lý.
Định nghĩa khác về triết học được phát triển trong PPNLPĐ (DN I). Ở đó triết học được phân biệt như là “hệ thống của nhận thức thuần lý nhờ vào các khái niệm” từ một sự phê phán lý tính thuần túy “định ranh giới và khảo sát ngay chính ý niệm về hệ thống” [PPNLPĐ (DN I), tr. 195, tr. 3]. Ở đây, hệ thống triết học được chia thành những lĩnh vực thuộc hình thức và chất liệu, với lĩnh vực đầu (logic học) chứa đựng “mô thức tư duy trong một hệ thống những quy tắc” và lĩnh vực sau chứa đựng “khả thể của nhận thức khái niệm và thuần lý về các đối tượng khả niệm” [PPNLPĐ (DN I), tr. 195, tr. 3]. Lĩnh vực sau hay hệ thống “thực tồn” của triết học được phân chia theo các đối tượng lý thuyết và các đối tượng thực hành: triết học lý thuyết quan tâm tới các mệnh đề về “khả thể của sự vật và những sự quy định của chúng” [PPNLPĐ (DN I), tr. 196, tr. 3], còn triết học thực hành quan tâm tới các mệnh đề “thiết lập luật lệ cho sự tự do”.
Vô số định nghĩa về triết học trong các cuốn phê phán của Kant còn được làm phức tạp thêm nữa bằng các định nghĩa về triết học trong L và các tiểu luận sau này như “Von einem neuerdings erhobenen vornehmen Tone in der Philosophie” [Về một giọng điệu quý tộc mới nổi lên trong triết học] và “Verkündigung des nahen Abschlusses eines Tractats zum ewigen Frieden in der Philosophie” [Thông tri về việc sớm ký kết một hiệp ước về hòa bình vĩnh cửu trong triết học] (cả hai đều xuất bản năm 1796). Tiểu luận sau tiếp tục dự án được khởi đầu trong GM, nhằm tách triết học nói chung và siêu hình học nói riêng ra khỏi huyền học và sự sùng đạo thuần tình cảm. Bởi những gì được miêu tả trong PPLTTT như là “khái niệm toàn hoàn vũ” hay mối quan hệ của nhận thức với các cứu cánh thiết yếu của nhân loại dễ làm mồi ngon cho huyền học và tình cảm sùng đạo. Phạm vi dự án hay “lãnh địa của triết học” được xác định trong L thành bốn câu hỏi: (a) Tôi có thể biết gì? (b) Tôi phải làm gì? (c) Tôi có thể hy vọng gì? (d) Con người là gì? Ba câu hỏi đầu trong PPLTTT là những câu hỏi về “những mối quan tâm của lý tính”, song trong L chúng cùng nhau tạo nên lãnh địa của triết học, bao gồm Siêu hình học, Đức lý, Tôn giáo và Nhân học.
Định nghĩa về triết học của Kant không hề giáo điều và có sự chuyển biến. Điều này là nhờ quan điểm lịch sử của ông, coi triết học như là kết quả của sự triết lý. Bởi, thậm chí với triết học phê phán, sự triết lý là không thể có tận cùng, định nghĩa về triết học luôn mở ngỏ và phụ thuộc vào sự triết lý đương thời hay của tương lai. Những câu hỏi nhằm xác định lãnh địa triết học không thể tách rời khỏi những mối quan tâm của lý tính con người, và thậm chí không thể có một câu trả lời giáo điều cho nó. Bởi lý do đó, việc đưa ra được một định nghĩa về triết học trả lời được những câu hỏi này là điều bất khả thi: một thứ triết học như thế sẽ đánh dấu chấm hết cho sự triết lý và cả cái chết cho bản thân triết học.
Như Huy dịch
Lịch sử triết học [Đức: Geschichte der Philosophie; Anh: history of philosophy]
Xem thêm: Nước đôi (tính), Các khái niệm phản tư, Triết học phê phán, Tranh biện (dispute), Triết học, Lý tính,
Mặc dù Kant khẳng định trong Lời tựa cho cuốn PPLTTT là sẽ “phê phán quan năng lý tính nói chung” chứ không phải phê phán “các tác phẩm và hệ thống” [triết học], nhưng lịch sử triết học vẫn đóng một vai trò quan trọng trong triết học của ông. “Các tác phẩm và hệ thống” trong lịch sử triết học xuất hiện khắp nổi trong PPLTTT, và thậm chí còn được đề cập một cách tường minh trong những trang kết luận của PPLTTT về “Lịch sứ của lý tính thuẫn túy”. Tuy nhiên, Kant nhất quán ứng xử với các triết gia trong lịch sử như thể họ là những người đồng thời với ông. Sự tôn trọng được ông dành cho họ không bởi sự hiện diện lịch sử của bản thân họ, mà chỉ theo sự đóng góp của họ cho triết học phê phán. Nguyên tắc lý giải của ông, hay “chìa khóa cho sự lý giải mọi sản phẩm của lý tính thuần túy” (được tuyên bố vào hồi kết của cuộc tranh luận với Eberhard) chính là sự “phê phán bản thân lý tính”. Trong khi các “nhà triết học sử chỉ biết ca ngợi mà không mang lại được điều gì”, thì Kant, với vũ khí phê phán, có thể phát hiện “nhiều hon những gì các triết gia đã nói, tức những gì họ thực sự muốn nói” (PH tr. 251, tr. 160).
Ta sẽ tìm thấy nghiên cứu có hệ thống nhất của Kant về lịch sử triết học trong bài viết Dẫn luận cho các Bài giảng của ông về Logic học. Về Đề cưong tổng quát cho lịch sử triết học, Kant kế thừa hai tác phẩm: Lịch sứ triết học giản yếu (Histoire abrégée de la Philosophie) của J. H. s Formey (1760) và Lịch sứ triết học (Historia philosophia) của E Gentzke (1724), dù ông cũng đương nhiên rất quen thuộc với nhiều nguồn tư liệu khác. Nghiên cứu của Kant về lịch sử triết học thấm nhuần định kiến của thời Khai minh, tức cho rằng: triết học ra đời cùng với những người Hy Lạp, chứ hầu như không được tìm thấy nơi các tư tưởng Trung Hoa, Ba-tư, Ai Cập hay Arập cổ đại. Nó cũng phản ánh định kiến cho rằng sự sáng tạo (innovation) trong triết học hầu như chỉ bó hẹp ở các thời kỳ cổ điển và hiện đại, còn các triết gia kinh viện trung đại thì bị buộc tội là những “kẻ bắt chước mù quáng Aristoteles” và đề ra sự triết lý-hư ngụy (pseudophilosophizing) (L tr. 543). Tuy nhiên, ngay trong các nghiên cứu về lịch sử triết học cổ điển và hiện đại, Kant cũng bộc lộ một vài sự ưu ái đáng ngạc nhiên, và nêu ra một số phán đoán gây ngỡ ngàng.
Bàn luận của Kant về các triết gia tiền-Socrates, với chỉ ngoại trừ một trường hợp, có tính sơ lược và thiếu nhiệt tình: triết gia duy nhất được thảo luận sâu là Pythagoras. Kant coi “kỷ nguyên quan trọng nhất của triết học Hy Lạp” bắt đầu với Socrates và ca ngợi “định hướng thực hành mới mẻ” được mở ra qua sự nghiệp của triết gia này (L. tr. 542). Khi miêu tả chuỗi phát triển triết học từ Socrates, Kant không chia sẻ sự dam mê hiện đại dành cho Plato và Aristoteles, mà coi họ ngang bằng, nếu không muốn nói thấp hơn các trường phái triết học thời Hy Lạp hóa như các triết gia Khắc kỷ (Stoicis), Epicurus và Hoài nghi (Sceptics). Với những phái này, ông cho thấy một kiến thức chi tiết và tinh tế cả về các học thuyết lẫn sự khác biệt giữa họ với nhau. Sự ưu ái này cũng thể hiện rõ trong tác phẩm phê phán của ông, ở đó, các tham chiếu tới Epicurus là nhiều hơn hẳn so với Platon. Tuy nhiên, các lý giải gần đây lại có xu hướng tập trung vào các yếu tố Platon trong tư tưởng của Kant, có lẽ bởi chúng tương ứng với các giả định của chúng ta về những gì là quan trọng trong lịch sử triết học. Tuy nhiên, chính quy trình phê phán, quan điểm về bộ chuẩn tắc và “sự dự đoán” (prolepsis) trong PPLTTT, cũng như quan điểm về sự vui sướng và Gemüt (tâm thức) trong PPNLPĐ đã được lấy trực tiếp từ Epicurus. Tham chiếu tới phái Khắc kỷ và các nhà Hoài nghi cổ đại cũng xuất hiện khắp tác phẩm của Kant, song chúng bị che khuất bởi các lý giải sau này tập trung vào Platon và Aristoteles.
Kant ban cho Platon một vai trò cực kỳ hàm hồ trong lịch sử triết học. Trong PPLTTT, ông ca ngợi tác phẩm Cộng Hòa (Republic) của Platon với mô hình về triết gia (A 316), song ông cũng nhận thấy nguy cơ đáng kể trong quan niệm của Platon về các ý niệm siêu việt. Sự đối lập của Kant với khía cạnh này trong tư tưởng của Platon được khơi lên và duy trì bởi sự đối lập của ông với thuyết thần bí kiểu Platon của một số triết gia đồng thời với ông. Điều này thể hiện rõ trong các văn bản hậu kỳ của ông về lịch sử triết học, như: “Vê một giọng điệu sang trọng mởi được cất lên gần đây trong triết học” (Von einem neuerdings erhobene vornehmen Tone in der Philosophie), và “Một tuyên bỗ về sự sắp ký kết một hiệp ước cho nên hòa bình vĩnh cứu trong triết học” (Verkündung des nahen Abschlusses eines Traktes zum ewigen Frieden in der Philosophie) (cả hai đều xuất bản năm 1796). Trong những văn bản này, Kant phân biệt giữa các xu hướng triết học và ham chuộng huyền học (mystagogic) trong thuyết Platon (Platonism), xem xu hướng sau là điển hình trong thuyết Platon-mới cổ đại và hiện đại (xem 1796a, tr. 339, tr. 64). Còn Aristoteles, trong trước tác của Kant, thì chủ yếu hiện ra với vai trò nhà phát minh ra Logic học, nên Kant đã tỏ ra không mấy nhiệt tâm khi trình bày nhận thức của mình về các khía cạnh khác của triết gia thành Stagirite này.
Khi bàn luận về triết học hiện đại, Kant luôn nhắc nhớ về thời kỳ Cải cách (Reformation), nêu ra sự song hành giữa việc Cải cách của định chế nhà thờ và việc cải cách triết học. Bacon và Descartes được lưu ý, người trước thì do sự nhấn mạnh vào thực nghiệm và quan sát, kẻ sau thì do tiêu chuẩn (criterion) của chân lý; song các nhà cải cách triết học đáng kể nhất của thời đại chúng ta (L tr. 543) phải là Leibniz và Locke. Kant đối lập Leibniz và Locke ở nhiều điểm, nhất là trong PPLTTT. Thật thế, nhiều tác phẩm thời trẻ đề cập đến Leibniz và trường phái Leibniz đang thống trị triết học do Christian Wolff lãnh đạo. Đối tượng nhất quán cho các chỉ trích của Kant chính là sự liên tục (continuum) do Leibniz lập ra giữa cảm năng và lý tính, qua đó coi cảm năng như một sự tri giác mù mờ hỗn độn của lý tính; điều này tương phản với lập luận của Locke, chủ trương rút lý tính ra từ cảm năng thông qua sự phản tư. Mặc dù cả hai lập trường dường như đối nghịch nhau triệt để, với Kant, chúng đều giống nhau ở chỗ lẫn lộn giữa giác quan và lý tính.
Trong PPLTTT, Kant kết hợp triết học cổ điển và hiện đại để tái hiện một màn bi kịch của lý tính thuần túy. Một ví dụ ở đây là lịch sử về sự suy tàn, sụp đổ và phục sinh của Siêu hình học được bàn trong Lời tựa thứ nhất của PPLTTT. Dưới tay “các nhà giáo điều”, Siêu hình học trở nên độc tài chuyên chế - Sau cuộc tổng công kích của các nhà hoài nghi du mục (normadic sceptics), nó rổi vào tình trạng vô chính phủ. Nỗ lực muốn kết thúc cuộc tranh luận của Locke đã không thành công, và cùng với thắng lợi của khoa học theo kiểu Newton, một sự thờ ơ đã xuất hiện trước các chủ đề siêu hình học. PPLTTT thể hiện một lời kêu gọi cho việc tổ chức và thiết lập một phiên tòa siêu hình học. “Lịch sử chính trị” này của sự cai quản của triết học được kể lại trong đoạn đầu của PPLTTT tương phản với lịch sử “cách mạng” của nó ở đoạn kết. Ở đó, trong mục “Lịch sứ của lý tính thuần túy” [cuối quyển PPLTTT], Kant đưa lịch sử triết học về thời đương đại qua việc nhận diện ba chủ đề gây tranh luận: “Đối tượng của nhận thức”, “Nguồn gốc của nhận thức”, và “Phương pháp” của triết học. Với chủ đề đầu tiên, Kant phân biệt giữa các “nhà duy cảm” như Epicurus và các nhà duy trí [duy tâm] như Platon; với chủ đề thứ hai, Kant phân biệt giữa trường phái duy nghiệm của Aristoteles, và Locke với những nhà “duy tâm” [noologisten] như Platon, Leibniz; còn với chủ đề về phương pháp, trước hết Kant phân biệt giữa các phương pháp “khoa học” và phương pháp “tự nhiên chủ nghĩa” (coi cái sau đơn thuần là chủ nghĩa thù ghét lý tính [misiology]), tiếp đến ông phân biệt giữa phương pháp khoa học giáo điều của Wolff và phương pháp khoa học hoài nghi của Hume. Mặc dù Kant nêu rõ tên hai triết gia này, song họ chỉ là những đại diện trong một màn bi kịch của lý tính, trong đó, tên tuổi những diễn viên khác đã “không được nhắc đến” (PPLTTT A 856/B 884). Đây là một màn kịch mà cao trào của nó chính là triết học phê phán.
Như Huy dịch