Chủ thể/Chủ ngữ [Hy Lạp: hupokeimenon; Latinh: subiectum; Đức: Subjeckt; Anh: subject]
Xem thêm: Tùy thể, Tôi (cái), “Tôi tư duy” (cái), VỊ ngữ/thuộc tính, Bản thể,
Theo Aristoteles, chủ thể, hay hupokeimmenon, biểu thị “cái nằm bên dưới” và được sử dụng theo nhiều nghĩa. Nó được sử dụng một cách logic để nói về chủ ngữ; nó cũng được dùng như một phưong cách biểu thị chất liệu, và như một cách biểu thị bản thể như là “chủ thể tối hậu” hay những tồn tại nào “được gọi là bản thể bởi vì chúng không phải là thuộc tính của một chủ thể, trái lại, mọi thứ khác lại là thuộc tính của chúng (1841, 1017b, 14). Với Descartes, chủ thể tối hậu được đồng nhất với cái Tôi tự-ý thức đã được khai mở bằng [mệnh đề] “tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (cogito ergo sum) và điều này sau đó được xem như là một căn cứ hay Cổ sở của vị ngữ hóa (hay thuộc tính hóa). Trong khi Kant chấp nhận rằng chủ thể với tư cách là cái Tôi là điều kiện mô thức logic của kinh nghiệm, ông kịch liệt chống lại tuyên bố rằng nó biểu thị một bản thể thực tồn.
Nghiên cứu của Kant về chủ ngữ logic rất gần với lý luận chính thống của Aristoteles. Ông khẳng định rằng tất cả các phán đoán (dù là phán đoán tổng hợp tiên nghiệm hoặc là phán đoán phân tích) là những phưong cách của tư duy về “quan hệ của một chủ ngữ với vị ngữ” (PPLTTT A 6/B 10). Trong phán đoán phân tích: “tất cả vật thể đều có quảng tính” và trong phán đoán tổng hợp tiên nghiệm: “tất cả vật thể đều nặng” (thì) khái niệm vật thể là chủ ngữ”; những khái niệm quảng tính và trọng lượng là những vị ngữ của phán đoán. Trong khi Kant sẵn sàng thừa nhận rằng cái Tôi tự-ý thức là chủ thể tối hậu của nhận thức và hành động, nhưng ông không muốn dành cho chủ thể này bất cứ sự hiện hữu có tính bản thể nào: cái Tôi như là chủ thể tuyệt đối là một chức năng logic chứ không phải là một tồn tại hiện có. Vì vậy, trong khi tôi có thể tự hình dung “một cái gì đó có thể tồn tại đon thuần như một chủ thể (chứ không phải một thuộc tính)... tôi hoàn toàn không biết biểu tượng logic này về chủ thể thuộc về sự vật dưới những điều kiện nào... do đó không hề biết khái niệm ấy thực sự có nghĩa gì không” (PPLTTT A 243/B 301). Vì vậy cái Tôi như một chủ thể chỉ là “một tiền tố đơn thuần” hay “một biểu tượng hoàn toàn trống rỗng”.
Kant cực kì nhạy cảm với sự nguy hiểm của việc đảo ngược chủ ngữ logic và những vị ngữ của nó thành bản thể và những tùy thể của môn bản thể học. Chủ thể logic của nhận thức là cái Tôi “vẫn còn lại sau khi tất cả những tùy thể (như là những thuộc tính) được tước bỏ hết” (SL §45), nhưng quá trình của bản thân sự trừu tượng hóa này không thể bảo đảm sự tồn tại của cái Tôi. Trông chờ vào việc nó đảm bảo cho sự tồn tại của cái Tôi là rơi vào sự sai lầm của võng luận, như trong võng luận thứ nhất của Tâm lý học thuần lý là võng luận sai lầm khi đi từ các tiền đề rằng: “chủ thể tuyệt đỗi của các phán đoán của ta” là bản thể, và rằng: “tôi, với tư cách là một tồn tại tư duy, là chủ thể tuyệt đỗi của tất cả những phán đoán có thể có của tôi” đến kết luận rằng: “do đó, tôi với tư cách là một tồn tại tư duy (linh hồn) là bản thể (PPLTTT A 348). Vì thế, Kant chấp nhận cogito hay “cái Tôi tư duy” như một mệnh đề về một cái tôi hay một chủ thể tuyệt đối, nhưng chống lại ergo sum hay sự suy luận mang tính võng luận rằng chủ thể này là một tồn tại bản thể.
Chủ nghĩa triệt để trong việc xem xét chủ thể trên bình diện lý thuyết của Kant được nêu rõ trong một số phương diện, nhất là đối với chủ thể thực hành. Trong những nghịch lý của PPLTTT và trong PPLTTH, Kant giả định rằng chủ thể hành động là một bản thể. Chủ thể hành động chiếm lĩnh cả vương quốc khả niệm của tự do lẫn vương quốc của tính nhân quả tự nhiên; trong tính cách khả niệm của nó, “chủ thể ấy phải được xét như là được giải phóng ra khỏi mọi ảnh hưởng của cảm năng” mặc dù những hành động của nó tạo ra những kết quả trong thế giới thường nghiệm (PPLTTT A 541/B 569). Kết luận rằng chủ thể hành động, cũng giống như chủ thể tư duy, đều chỉ là một chức năng logic chứ không có tồn tại bản thể đã được Nietzsche (1886) và Freud (1915) đưa ra. Theo nguồn cảm hứng của họ, các tác gia cuối thế kỷ XX như Foucault (1980, 1988), Lacan (1986) và Derrida (1967) đã rút ra những hệ quả của sự phân ly nguyên thủy giữa cái cogito (tôi tư duy) khỏi ergo sum (vậy tôi tồn tại) ở Kant.
Mai Thị Thùy Chang dịch