TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

lòng tin

lòng tin

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển tổng quát Anh-Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

đức tin và tư kiến

 
Từ điển triết học HEGEL

Tín chỉ

 
Từ điển tổng quát Anh-Việt

tín dụng

 
Từ điển tổng quát Anh-Việt

tín ngưỡng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

đứe tin

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự sùng bái

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tôn sùng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tín nhiệm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tin cậy

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

niềm tin

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự tin tưởng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
lòng tin/đức tin

lòng tin/đức tin

 
Từ điển triết học Kant

lòng tin

 
Từ điển triết học Kant

đức tin

 
Từ điển triết học Kant

Anh

lòng tin

 confidence

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

belief

 
Từ điển triết học HEGEL

faith and opinion

 
Từ điển triết học HEGEL

Credit

 
Từ điển tổng quát Anh-Việt
lòng tin/đức tin

faith/belief

 
Từ điển triết học Kant

faith

 
Từ điển triết học Kant

belief

 
Từ điển triết học Kant

Đức

lòng tin

Zutrauen

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

Zuversicht

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

glaube

 
Từ điển triết học HEGEL

und meinung

 
Từ điển triết học HEGEL

Glaubensbekenntnis

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Religion

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Vertrauen

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

GIaube

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
lòng tin/đức tin

glaube

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

den Glauben an jmdnJetw. verlieren

mất lòng tin vào ai/điều gì

bei jmdm. Glauben finden

được ai tin cậy

jmdn. bei od. in dem Glauben lassen, dass ...

để cho ai tin rằng...

ein blinder Glaube

một lòng tin mù quáng

jmdm. Glauben schen ken

đặt lòng tin vào ai

im guten/in gutem Glaube

trong niềm tin chắc chắn vào tính đúng đắn

(Spr.) der Glaube versetzt Berge/kann Berge versetzen

với lòng tin người ta có thề dời núi lấp biển.

Từ điển triết học Kant

Lòng tin/Đức tin [Latinh: fides; Đức: Glaube; Anh: faith/belief ]

Xem thêm: Hi vọng, Tri thức, Tinh yêu, Tư kiến, Định đề,

Khái niệm về lòng tin đóng một vai trò khá nhỏ trong triết học Hy Lạp cổ đại; nó được Platon sử dụng để mô tả một trong những cấp bậc nhận thức bằng thường kiến (Platon, 1961, Cộng hòa, 5lie) và cũng được dùng để mô tả niềm tin vào các vị thần (sđd, Laws, 966d). Đối với Aristoteles, lòng tin quy chiếu đến một hình thức chứng minh dựa trên sự quy nạp hay sự thuyết phục tu từ học. Khái niệm triết học về lòng tin có nguồn gốc từ truyền thống Kitô giáo, và nhất là mạch tôn giáo của Thánh Paul. Nguồn gốc này đã dẫn đến một sự căng bức giữa lòng tin và tri thức, hay giữa học thuyết tôn giáo và triết học. Nó khêu gợi nhiều nỗ lực tưởng tượng khác nhau để hòa giải, được tiếp tục mãi đến tận Kant và sau Kant.

Trong Kinh Thánh Tân Ước, lòng tin là một thái độ tin vào đức Kitô, hoặc vào lời dạy, phép lạ chữa bệnh hoặc các sự nghiệp của đức Kitô. Đức tin ấy đã được Thánh Paul điển chế hóa. Ông đã sử dụng thuật ngữ này hơn 200 lần trong các bức thư Epistles như một phương tiện để phân biệt thái độ Kitô giáo đối với lề luật so với thái độ của người Do Thái. Ông còn khơi mào ý tưởng cực kỳ có ảnh hưởng rằng lòng tin là một quà tặng của ân sủng: “Vì nhờ ân sủng, ngươi đã được cứu rỗi bằng đức tin; và đây không phải là việc làm của riêng ngươi mà là quà tặng của Thiên Chúa” (Thư gửi các tín hữu Ephesians 2:8). Ý tưởng này đã được Augustinus phát triển trong nhiều tác phẩm, và được Aquinas mang lại chỗ đứng trong cao trào hồi sinh Aristoteles thời trung đại. Trong Summa contra gentiles [Tổng luận trả lời lương dân], ông phân biệt giữa sự đi lên từ tri thức tự nhiên đến Thượng đế với sự đi xuống từ tri thức của lòng tin thông qua ân sủng từ Thượng đế, những vận động mà ông xem như có tính bổ sung (Aquinas, 1975, tr. 39). Mối quan hệ nữa giữa lòng tin và triết học (hay tri thức) đã được Anselm khảo sát, trong cuốn Proslogion [Thuyết thoại vê sự hiện hữu của Thượng đế] của ông, lòng tin đóng vai trò như điều kiện của việc hiểu, một tư tưởng đã dẫn đến quan niệm rằng lòng tin có quyền ưu tiên hơn việc hiểu, và sau đó dẫn đến sự tuyên bố [đức tin], credo quid absurdum - “Tôi tin vì đó là điều phi lý”. Đi theo thời Cải cách, các lập luận cho lòng tin như một quà tặng chủ quan của ân sủng được sử dụng để phê phán học thuyết về sự công chính hóa thông qua việc làm (công đức), và ủng hộ sự khoan dung của giới giáo sĩ và sự khoan dung thế tục (xem Luther, 1961, tr. 385).

Bàn luận của Kant về lòng tin thừa kế các lập luận giữa lòng tin và tri thức, và xuất hiện trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. Trong một ngữ cảnh, ông trình bày bàn luận của mình về lòng tin bên trong một khuôn khổ tương đồng với ba hình thức tri thức của Platon (Platon, 1961, Cộng hòa, 51 le): lòng tin, tri thức và tư kiến là ba phương cách của sự xác tín chủ quan hay sự “cho-là-đúng” (Fürwahrhalten). Trong PPLTTT, ông trình bày sự xác tín ấy dựa vào sự đầy đủ chủ quan và khách quan: tư kiến không đầy đủ về mặt chủ quan lẫn khách quan; tri thức thì đầy đủ về cả mặt chủ quan lẫn khách quan; trong khi lòng tin thì đầy đủ về mặt chủ quan nhưng không đầy đủ một cách có ỷ thức về mặt khách quan (PPLTTT A 822/ B 850; xem thêm ĐHTD). Trong PPNLPĐ, sự phân biệt được khuôn định dựa vào các đối tượng của tư kiến, tri thức và lòng tin: một đối tượng của tư kiến là đối tượng mà sự hiện hữu của nó là có thể có trên phương diện thường nghiệm nhưng không thể chứng minh được; trong khi sự hiện hữu của một đối tượng của tri thức có thể được thẩm tra về mặt kiện tính lẫn bằng lý tính thuần túy. Tuy nhiên, các đối tượng của lòng tin, trong khi được suy tưởng một cách tiên nghiệm nhưng lại là “siêu việt đối với sự sử dụng lý tính lý thuyết” (PPNLPĐ §91); chúng là những ý niệm có sự xác tín chủ quan, nhưng “tính thực tại khách quan của chúng không thể được đảm bảo trên phương diện lý thuyết”. Kant đưa ra ba ví dụ về các đối tượng như thế: a) “cái thiện tối cao trong thế giới, được thực hiện bằng sự tự do”; b) sự hiện hữu của Thượng đế; và c) sự bất tử của linh hồn. Cuối cùng, trong L, Kant phân biệt giữa ba hình thức của sự cho-là-đúng dựa vào tình thái của các phán đoán của chúng: tư kiến là có tính nghi vấn, tri thức thì có tính tất nhiên, còn lòng tin là có tính xác định.

Ba đối tượng của lòng tin được liệt kê trong PPNLPĐ vang vọng ba “định đề của lý tính thực hành” - sự tự do, sự bất tử và sự hiện hữu của Thượng đế - được trình bày trong PPLTTH dựa vào thực tại khách quan được mang lại cho các ý niệm của lý tính. Chúng không phải là các đối tượng của nhận thức lý thuyết, mà có phẩm giá thực hành riêng của chúng. Cũng cùng ba ý niệm ấy trong Lời Tựa cho ấn bản thứ hai của PPLTTT được dùng để “mở rộng lý tính thuẫn túy về mặt thực hành” và vì thế, Kant đưa ra câu nói nổi tiếng, “tôi phải dẹp bỏ nhận thức [sai lầm] đi để dành chỗ cho lòng tin” (PPLTTT B 30). Tuy nhiên, điều này không phải là sự nhân nhượng theo nghĩa credo quid absurdum [“tin vì nó phi lý”], vì với Kant, sự chắc chắn chủ quan của lòng tin được đặt nền tảng vững chắc và không cần cầu viện hoặc phủ nhận tri thức. Thậm chí điều này cũng đúng với “lòng tin về học thuyết” như thần học-vật lý vốn áp dụng sự chắc chắn chủ quan của lòng tin luân lý một cách tương tự [loại suy] (PPLTTT A 825/ B 853) cho các đối tượng của Tự nhiên. Một ví dụ, được phân tích rất dài trong PPNLPĐ ở Phần II, là tính hợp mục đích của thế giới nảy sinh từ “việc định đề hóa” một cách loại suy về một “tác giả sáng suốt của thế giới”. Yêu sách này không thể được biện minh trên phương diện lý thuyết, nhưng mức độ xác tín chủ quan được liên kết với nó còn vượt xa khỏi mức độ xác tín chủ quan của tư kiến.

Kant xem lòng tin có tính học thuyết này là không ổn định, không như lòng tin luân lý và lòng tin của lý tính mà nó làm phát sinh. Lòng tin luân lý đặt ra sự chắc chắn dựa trên sự hiện hữu của sự tự do, tính bất tử và Thượng đế, và sự chắc chắn này dựa trên sự bất lực trong việc phủ nhận các định đề này mà không “trở thành đáng ghê tởm trước chính tôi” (PPLTTT A 828/ B 856). Lòng tin của lý tính nảy sinh từ sự chắc chắn luân lý bao hàm một thức nhận về những điều kiện cần thiết để đạt đến “sự thống nhất của các mục đích dưới quy luật luân lý” (xem thêm ĐHTĐ). Và thậm chí nếu một người dửng dưng với các quy luật luân lý, lòng tin của lý tính hẳn sẽ làm phát sinh một lòng tin tiêu cực theo kiểu đặt cược của Pascal; vì ta không thể nào đạt được “sự xác tín rằng không có Thượng đế và đời sau” (PPLTTT A 830/ B 858), lòng tin như thế ắt sẽ hình thành một “cái tương tự” của các tình cảm tốt đẹp, tức là một vật cản trước sự bộc phát của những tình cảm xấu.

Bàn luận của Kant về lòng tin nhấn mạnh đến cái gì phân biệt nó với tri thức trong khi lại đặt ngang hàng nó với các ý niệm thực hành của lý tính. Mặc dù Kant có vẻ nhấn mạnh sự hiện hữu của Thượng đế và tính bất tử, các quan tâm của ông không chủ yếu là các quan tâm tôn giáo. Tuy nhiên, điều này không có ý nói rằng ông loại trừ các suy xét tôn giáo, vì những điều này đã được bàn khá dài trong TG. Ở cuốn đó, Kant sử dụng ý niệm về lòng tin như một quà tặng ban sự xác tín chủ quan cho người lĩnh nhận nó để biện minh cho sự phân biệt giữa tôn giáo, vốn chỉ có duy nhất một, với các lòng tin vốn có rất nhiều (Do Thái giáo, đạo Islam, Ân giáo, Kitô giáo). Tôn giáo “ẩn giấu bên trong và phải làm việc với các tâm thế luân lý” (TG, tr. 108, tr. 99), trong khi “các lòng tin của giới giáo sĩ” là có tính bên ngoài, thường nghiệm và có nhiều thứ. Kant biện biệt (và khuyến khích) một sự chuyển tiếp từ các lòng tin cục bộ của giới giáo sĩ đến nhà thờ phổ quát của tôn giáo; mọi cá nhân đều “có” một “lòng tin cứu độ” hoặc “lòng tin tôn giáo thuần túy” - tức, lòng tin thực hành - ngay cả khi họ thực hành một lòng tin theo kiểu giáo sĩ (TG, tr. 115, tr. 106). Cái sau là những sự phát triển của “các lòng tin lịch sử” đặt cơ sở trên những hành vi thiên khải riêng biệt và được thừa nhận, và nhấn mạnh đến các hành vi thể hiện ra bên ngoài của “sự cầu khẩn và lòng tin vị lợi”, vốn có thể được thực hiện dễ dàng với một tâm thế xấu không giống như lòng tin cứu độ.

“Lòng tin tôn giáo thuần túy” hay lòng tin cứu độ có hai yếu tố: một là lòng tin vào một sự chuộc tội hoặc dọn mình cho những hành động không công chính [unjust], trong khi yếu tố thứ hai là “lòng tin rằng chúng ta có thể trở nên làm hài lòng Thượng đế thông qua một cuộc sống thiện hảo trong tương lai” (TG, tr. 115, tr. 106). Hai yếu tố này rút ra từ nhau nhưng trong những hoàn cảnh nào đó, yếu tố này có thể chiếm ưu thế hơn yếu tố kia. Lòng tin của giới giáo sĩ có tính lịch sử đặt ưu tiên cho sự chuộc tội, đặt tính ưu tiên cho lòng tin vào một “sự cứu chuộc có tính trải nghiệm” hơn so với việc sống một đời sống thiện hảo, trong khi trong tôn giáo lại ngược lại, với lòng tin thực hành có tính ưu tiên hơn so với lòng tin vào sự thiên khải. Kant xem xét một sự hòa trộn có thể có giữa hai lập trường trong một hình thức Kitô học [Christology] trong đó Kitô là một đối tượng của lòng tin cứu độ không phải vì Ngài đã từng tồn tại và là con Thiên Chúa, mà là vì Ngài là một “nguyên mẫu” điển hình “nằm trong lý tính của ta... của một đời sống làm vui lòng Thượng đê” (TG, tr. 119, tr. 110).

Bàn luận của Kant về lòng tin tôn giáo và lòng tin của giới giáo sĩ có thể bị phê phán vì các yếu tố Paul ngầm ẩn của nó, vốn ưa thích một “Vương quốc” được đặt nền tảng trên một lòng tin cứu độ phi lịch sử hơn những sự định hướng tôn giáo khác vốn dửng dưng với các vấn đề của lòng tin nhưng lại nhấn mạnh tính cách lịch sử của chúng. Tuy nhiên, đó không phải là phương diện của nghiên cứu của Kant về lòng tin gây tò mò nhất cho những người kế tục ông (với ngoại lệ là Hermann Cohen, người đã đặt ngang hàng Do thái giáo với tôn giáo của lý tính thuần túy mà Kant đã mô tả dựa theo Kitô giáo). Hầu hết những người kế tục ông đều quan tâm đến phiên bản của Kant về vấn đề vĩnh cửu của lòng tin và tri thức, như EH. Jacobi (1743-1819) vào cuối thế kỷ XVIII đã lập luận ủng hộ cho lòng tin chống lại tri thức theo cách rất giống với cách Hamann đã làm trong các siêu-phê phán của mình về Kant (xem Jacobi, 1787, Hamann, 1967). Hegel trong Tin và Biết (1802) đã nỗ lực loại bỏ sự phân biệt này bằng cách cho thấy một khái niệm trừu tượng về cái Biết đã gây ra một sự đối lập giữa Tin và Biết như thế nào. Diễn ngôn chống-Hegel của Kierkegaard về lòng tin trong Sợ hãi và Run sợ (1834) bảo vệ lòng tin vừa như một điều kiện tiên quyết của cái Biết vừa như một bước nhảy ra khỏi cái Biết, để vào cái phi lý. Trái lại, Nietzsche nghiên cứu phả hệ học của lòng tin, mô tả “vấn đề cơ bản” của ông như “Quyền năng vô hạn của lòng tin từ đâu mà ra?” (Nietzsche, 1901, §259), hoặc trong luân lý hoặc trong chân lý. Mặc dù nghiên cứu này được trình bày như một phê phán về Kant, nhưng đặc trưng là nó vẫn duy trì nhiều phương diện của Kant, nhất là trong sự tự-ghê ghét mình và sự ghê tởm “con người xấu xí nhất” tiếp sau sự sụp đổ của lòng tin và cái chết của Thượng đế.

Trần Kỳ Đồng dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Glaubensbekenntnis /das/

(o PI ) tín ngưỡng; lòng tin; đứe tin;

Religion /[reli'giom], die; -, -en/

(o Pl ) sự sùng bái; sự tôn sùng; lòng tin;

Vertrauen /das; -s/

sự tín nhiệm; sự tin cậy; lòng tin;

GIaube /fglaubo], der, -ns (seltener auch: Glauben)/

lòng tin; niềm tin; sự tin tưởng; sự tin cậy;

mất lòng tin vào ai/điều gì : den Glauben an jmdnJetw. verlieren được ai tin cậy : bei jmdm. Glauben finden để cho ai tin rằng... : jmdn. bei od. in dem Glauben lassen, dass ... một lòng tin mù quáng : ein blinder Glaube đặt lòng tin vào ai : jmdm. Glauben schen ken trong niềm tin chắc chắn vào tính đúng đắn : im guten/in gutem Glaube với lòng tin người ta có thề dời núi lấp biển. : (Spr.) der Glaube versetzt Berge/kann Berge versetzen

Từ điển tổng quát Anh-Việt

Credit

Tín chỉ, lòng tin, tín dụng

Từ điển triết học HEGEL

Lòng tin, Đức tin và Tư kiến [Đức: Glaube(n), und Meinung; Anh: belief, faith and opinion]

Giống như trong tiếng Anh, tiếng Đức có nhiều từ để chỉ các loại hình và các cấp độ của lòng tin. Trong Hegel nổi bật nhất là hai từ Glaube(n) và Meinung. Glaube đến từ động từ glauben (“tin 7Anh: “to believe”), nguyên nghĩa là “thưong yêu” (lieb), “ủng hộ”. Trong nước Đức tiền-Kitô giáo, từ này chỉ sự tin cậy của con người vào một thần linh, và về sau diễn đạt mối quan hệ giữa người Kitô hữu với Thượng Đế. Từ “đức tin” này có nghĩa yếu hon khi trở thành “lòng tin”, “niềm tin” trong ngôn ngữ thông thường.

Như thế, giống với từ “belief” trong tiếng Anh, Glaube chỉ: (1) lòng tin cậy hay tin tưởng (Vertrauen) vào một người, một vật hay Thượng Đế;

(2) chấp nhận điều gì đó như là đúng thật (Fũrwahrhalten/“cho là đúng”);

(3) điều được tin. Nhưng danh từ Glaube thì hẹp hơn từ “belief” trong tiếng Anh, ở chỗ nó bao hàm một sự xác tín mạnh mẽ hơn và ít dựa vào bằng chứng cảm tính hay lý tính so với từ “belief”. (Tuy nhiên, động từ glauben lại không loại trừ việc dựa vào bằng chứng). Do đó Glaube dẫn đến “lòng tin” hay sự “xác tín” (Anh: “faith”): Hegel thường liên kết lòng tin với “sự xác tín trực tiếp (Gewissheit)” - tức một sự xác tín chủ quan không dẫn đến chân lý hay sự thật - và tương phản với LÝ TÍNH, TƯ DUY và KHÁI NIỆM. Từ tiếng Đức cho “mê tín” cũng được hình thành từ Glaube: Aberglaube (“lòng tin sai lầm”, “mê muội”) - nhưng ý nghĩa chính xác của tiền tố Aber - là không chắc chắn. (“Cương lĩnh xưa nhất vẽ Hệ thống thuyết ảuy tâm Đức” (1796 hay 1797) có thể do Hegel viết đã dùng từ Afterglaube thay cho Aberglaube).

Hegel không gắn liền Glaube với tôn giáo cổ đại - theo ông, người Hy Lạp cổ đại quá đắm chìm vào trong xã hội riêng của họ và trong những tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của họ khiến không thể có “đức tin” (Anh: faith) hay “sự tin cậy” (Anh: trust) (“là một người ngoại đạo là một chuyện, còn tin vào một tôn giáo ngoại đạo lại một là chuyện khác”, THPQ, §147). Trái lại, ông gắn liền Glaube với Kitô giáo, vì Glaube bao hàm một sự tách rời khỏi Thượng Đế hay khỏi cái TUYỆT ĐỐI và một thái độ PHẢN TƯ về đối tượng này. Hegel đặc biệt quan tâm đến Glaube trong các tác phẩm thần học thời trẻ (THTT). Trong các tác phẩm này, nhất là trong TĐKTG và TTKT, ông tìm cách trả lời câu hỏi tại sao Kitô giáo lại trở thành một tôn giáo “thực định” (positive), tức là một “đức tin thực định” theo nghĩa một “hệ thống những mệnh đề tôn giáo được cho là chứa đựng chân lý cho ta, bởi đó là đòi hỏi của một quyền uy mà ta không thể không bày tỏ đức tin”. Quan niệm này về đức tin là quan niệm của Giáo hội Công giáo: đức tin là đức hạnh siêu tự nhiên, nhờ đó, cùng với sự trợ giúp của ân sủng của Thượng Đế, ta chấp nhận là đúng thật những gì Thượng Đế đã khải thị, chỉ duy nhất dựa vào quyền uy của Thượng Đế, chứ không phải vì ta đã nhận rõ chân lý ấy bằng ánh sáng tự nhiên của lý tính.

Thay vào đó, Hegel tán thành quan điểm của phái Luther, theo đó đức tin không phải là việc tin vào những sự kiện lịch sử nào đó cho bằng lòng tin cậy vào Thượng Đế, vào việc đón nhận lời hứa hay tin mừng của Thượng Đế. Chính quan niệm này về Glaube đã được Hegel gắn vào đức Kitô và những Kitô hữu Sổ kỳ; đức tin ở đây không phải là việc chấp nhận điều gì đó như là sự thật, mà theo nghĩa nguyên thủy của nó như là sự tin cậy hay tin tưởng vào đấng thần linh: “Đức tin vào đấng thần linh là khả hữu, chỉ bởi vì ngay nổi bản thân người tín đồ có một yếu tố thần linh, tái phát hiện chính mình, bản tính của mình, ở trong đối tượng của đức tin... Trạng thái trung gian giữa một bên là sự tối tăm, xa cách với đấng thần linh, việc bị cầm tù trong cái hiện thực và bên kia là đời sống hoàn toàn có tính thiêng liêng của chính mình, một lòng tin vững chắc vào chính mình, đó mới chính là đức tin vào thần linh; đức tin là sự dự cảm, sự nhìn nhận cái thần linh và lòng khao khát hợp nhất với cái thần linh”.

Về sau, Hegel phản đối bất kỳ quan niệm nào về Glaube, dù là Công giáo hay Tin Tành, muốn đối lập Glaube với lý tính và tư duy khái niệm. Trước hết, dưới ảnh hưởng của phong trào Khai minh, ông không thể cho phép học thuyết nào đó chỉ đon giản được chấp nhận bằng quyền uy. Các học thuyết, nếu muốn được chấp nhận, phải được xác chứng bởi “thức nhận” (Einsicht/Anh: insight), chứ không phải bởi quyền uy của giáo hội hay nhà nước. Thứ hai, ông bác bỏ bất kỳ quan niệm nào về “hai thế giới”, bác bỏ thế giới “ở bên kia” được đức tin định đề hóa như là chỗ ẩn náu bên ngoài thế giới của thực tại trần tục. Tý tưởng thời trẻ của ông là thành quốc Hy Tạp, trong đó những người công dân hoàn toàn hòa điệu với thành quốc và với những thần linh trong thành quốc ấy. Nhưng ông sớm từ bỏ lý tưởng này, nhận ra rằng sự “hoài vọng” (Sehnsucht) như thế chỉ là một phiên bản khác của lòng tin vào một thế giới “bên kia”, trong khi ông vẫn giữ vững sự đối kháng lại một thuyết nhị nguyên. Thứ ba, Hegel không thích sự hòa loãng đức tin phong phú của Kitô giáo Sổ kỳ và trung cổ thành một lòng tin mờ nhạt của thời hiện đại vào một “BẢN THỂ/ HỮU THỂ tuyệt đối” (absolutes Wesen) hay một Thượng Đế chỉ được quan niệm như là “tồn tại thuần túy” chẳng hạn. Một lòng tin như thế vừa trống rỗng về mặt trí tuệ, vừa bất lực trong việc cung cấp một tiêu điểm cho đức tin phổ thông hay cho việc mang lại sức sống đối với một thực tại ngày càng được thế tục hóa và chỉ được quan niệm theo cách Cổ giới và tính hữu ích. Hegel tin rằng việc làm cho lòng tin này trở nên nghèo nàn có nhiều nguyên nhân: đạo Tin Lành nhấn mạnh vào TÍNH CHỦ THỂ, tinh thần và cường độ của lòng tin, làm tổn thương đến TÍNH KHÁCH QUAN và nội dung của đức tin; chủ nghĩa cá nhân của đạo Tin Lành, việc nhấn mạnh đến sự xác tín riêng tư và sự hiến dâng, tổn thương đến quyền uy công cộng và việc thờ cúng mang tính cộng đồng; sự xâm lấn của khoa học Newton vào các lĩnh vực trước đây được dành cho đức tin; cuộc tranh đấu của phong trào Khai minh chống lại Aberglaube (sự mê tín); và chủ nghĩa cá nhân vị kỷ gắn liền với sự lớn mạnh của XÃ HỘI DÂN sự.

Tiến trình này được phản ánh trong tư tưởng của Kant và những người kế tục, nhất là Jacobi và Fichte, như nhận định của Hegel trong TVB. Kant cho rằng mình đã phá vỡ những luận cứ lý thuyết của các học thuyết tôn giáo trong PPLTTT, và đã “dẹp bỏ tri thức để dành chỗ cho đức tin” - một đức tin mà sau này ông cố gắng cung cấp cho nó một cơ sở trong LUÂN LÝ. Nhưng Hegel lại nhìn kết quả ấy như là một đức tin đã bị pha loãng và hoàn toàn bị tách rời khỏi thế giới của CÁI BIẾT (Wissen). Dưới mắt Hegel, nhà vô địch của triết học về đức tin là Jacobi, người đã nói về việc cần phải có một Salto mortale (“bước nhảy sinh tử”) của đức tin để vượt qua hố thẳm ngăn cách giữa nhận thức triết học (Erkennen) và chân lý tôn giáo. Jacobi đã dùng một loạt những thuật ngữ chung quanh bước nhảy sinh tử này: “đức tin”, “cái biết trực tiếp” (Wissen, trong sự tương phản với Erkennen), “CẢM NHẬN” và “TRựC QUAN”. Nhưng Hegel lại thấy các thuật ngữ này chẳng có gì khác nhau: cùng chia sẻ một tính trực tiếp, chúng sẽ dẫn đến cùng một thứ như nhau. Nhưng tính trực tiếp trong đức tin của Jacobi lại phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết trung tâm của nó, đó là tương phản với đức tin Kitô giáo, nội dung của nó là mỏng mảnh đến chỗ không còn gì, cùng lắm chỉ cung cấp một mẫu số chung ở cấp độ thấp kém nhất trong mọi tôn giáo. Một yếu tố khác góp phần vào việc pha loãng Glaube chính là việc áp dụng nó vào cho các vấn đề trần thế: chẳng hạn Jacobi cho rằng sở dĩ tôi biết về sự tồn tại của những đối tượng bên ngoài và của thân thể tôi, là nhờ vào Glaube. Trong khi đó, khi bàn về sự xác tín cảm tính, Hegel đã chứng minh rằng nội dung phong phú của thế giới bên ngoài không thể được nắm bắt bằng cái biết trực tiếp hay bằng lòng tin (HTHTT, I). Theo cách nhìn của Hegel, một trạng thái nhận thức cũng phải mang tính phức hợp và được trung giới như chính đối tượng được nhận thức của nó.

Hegel tin rằng trong những sự trung giới phức tạp được trình bày trong Khoa học Lô-gíc, trong triết học về tôn giáo và triết học về pháp quyền, ông đã mang lại một sự hòa giải tốt nhất có thể có được cho những yêu cầu thoạt nhìn là xung đột với nhau trong đức tin: (1) bảo tồn nội dung phong phú và đầy sức nặng của đức tin Kitô giáo; (2) thỏa mãn quyền của cá nhân trong việc khẳng định và bảo vệ quan điểm của mình một cách hợp lý tính; và (3) làm cho đức tin này được hiện thân trong xã hội, trong đời sống và trong quan niệm của chúng ta về thế giới “bên này” hon là quy nó về cho một thế giới “bên kia”.

Glaube và Glauben được phân biệt với Meinung (“tư kiến, thường kiến”) và meinen (“cho rằng”, “tin rằng”, “tưởng rằng”). Kant đã từng định nghĩa Meinung như là “việc cho là đúng (Fürwahrhalten/Anh: an acceptance as true), nghĩa là cái gì được ta ý thức rõ là khiếm khuyết cả về mặt chủ quan lẫn khách quan. Còn nếu việc cho là đúng là đầy đủ về mặt chủ quan nhưng lại khiếm khuyết về mặt khách quan, thì đấy là lòng tin. Sau cùng, việc cho là đúng vừa đầy đủ về mặt chủ quan lẫn khách quan thì đấy mới chính là tri thức” (PPLTTT B850). Hegel liên hệ Meinung với mein (“của tôi”) (vốn không có cùng một gốc từ nguyên), và vì thế gắn liền với cái gì có tính riêng tư: đó là “một sự HÌNH DUNG chủ quan (Vorstellung), một ý tưởng tùy tiện, mà tôi có thể hình thành theo cách tôi thích, trong khi người khác có thể hình thành một cách khác. Một Meinung là mein (“của tôi”), chứ không phải là một tư tưởng mặc nhiên có tính phổ biến Tự MÌNH VÀ CHO MÌNH. Thế nhưng, triết học là KHOA HỌC khách quan về chân lý, là khoa học về sự tất yếu của chân lý, là nhận thức khái niệm, chứ không phải sự tưởng thật từ những tư kiến” (LSTH, Dẫn Nhập). Trong HTHTT, I, và ở nổi khác, Hegel đối lập Meinung và những gì được tôi tưởng thật (meine) với những gì tôi nói ra: điều tôi tưởng thật (meine), tư kiến (Meinung) của riêng tôi, không thể được diễn đạt bằng những từ ngữ phổ biến có sẵn trong ngôn ngữ. (Hegel lúc nào cũng tôn vinh tính lý tính của ngôn ngữ và xem nhẹ Meinung). Ở đây, từ meinen và Meinungỉuồn có nghĩa là những gì một cá nhân “tưởng thật” và “muốn nói” bằng phương tiện ngôn ngữ, chứ không có nghĩa là “ý nghĩa” của một từ.

Öffentliche Meinung, một thuật ngữ đã trở thành thời trang ngay trước khi Cách mạng Pháp (1789) xảy ra, có nghĩa là “công luận” (Anh: “public opinion”). Hegel cho rằng công luận là sự thể hiện nguyên tắc hiện đại về sự Tự DO chủ quan, theo đó những chuẩn mực của lý tính và những cấu trúc chính trị không thể được áp đặt bằng sức mạnh hay bằng tập quán và truyền thống, mà chỉ có thể bằng việc thuyết phục người công dân về những lợi ích của họ. Vì thế công luận là một sự kết hợp khá nghịch lý giữa lý tính công cộng và quyền lực với tính riêng tư, bất tất và lệch lạc của Meinung. Do đó. “sự độc lập của công luận là điều kiện hình thức đầu tiên của bất kỳ điều gì lớn lao và hợp lý tính trong đời sống cũng như trong khoa học (...) Công luận chứa đựng mọi loại sai lầm và mọi loại chân lý, và cần có một vĩ nhân để tìm thấy chân lý trong nó” (THPQ, §316-18).

Bùi Văn Nam Sơn dịch

Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 confidence

lòng tin

Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

lòng tin

Zutrauen n, Zuversicht f lòng tốt Güte f, Gunst f, Wohlwollen