TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

actuality

Hiện thực

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

1. Hiện thực tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thực hiện tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thực tế tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

chân thực tính

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thực tại tính 2. Hiện thực

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

hiện tồn

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thực tại

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

chân thực 3. Giới thực tại.

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Hiện thực

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Hiện thực tánh.

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

hiệu thực

 
Từ điển triết học HEGEL

hiện thực/hiệu thực

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

actuality

actuality

 
5000 từ vựng thông dụng Anh-Anh
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

effectivity

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học HEGEL

actuality/effectivity

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

actuality

Wirklichkeit

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL
Truyện Những giấc mơ của Einstein (Anh-Việt)

Besso puts four cubes of sugar in his coffee while Einstein gazes at the Bernese Alps, far off in the distance and barely visible through the haze. In actuality, Einstein is looking through the Alps, into space.

Besso bỏ bốn viên đường vào li cà phê, còn Einstein ngó qua rặng Alps xa tít tắp bị hơi mù che phủ như chẳng còn thấy gì nữa. Song thật ra Einstein nhìn xuyên qua rặng Alps, vào không gian.

Từ điển triết học HEGEL

Hiệu thực [Đức: Wirklichkeit; Anh: actuality]

> Xem Hiện thực/ Hiệu thực Đức: Wirklichkeit; Anh: actuality/effectivity]

Hiện thực/Hiệu thực [Đức: Wirklichkeit; Anh: actuality/effectivity]

Về mặt từ nguyên lẫn trong tư tưởng Hegel, tính từ wirklich (“hiện thực”/Anh: “actual”) gắn liền với động từ wirken (“tác động” hay “tạo hiệu quả”), với từ wirksam (“có hiệu quả”, “có tác động”) và danh từ Wirkung (“hiệu quả”, “tác động”): “cái gì là hiện thực thì có thể tác động (wirken)”. Cách sử dụng các từ này cũng tương tự như cách sử dụng từ “hiện thực”, “thực sự”, “đích thực”: một nhà trinh thám thật sự hay hiện thực tương phản với một nhà trinh thám hư cấu, tưởng tượng, chẳng hạn như nhân vật Sherlock Holmes hay đơn thuần khả hữu như nhà trinh thám đang ngồi bên cạnh tôi đây; nó cũng tương phản với một nhà trinh thám ảo, hay mô hình bằng sáp; cũng tương phản với một nhà trinh thám tồi, kém tài; và với một nhà trinh thám chỉ mới trong tiềm năng, tức một người mới vào nghề có khả năng trở thành một nhà trinh thám nhưng chưa hiện thực hóa năng lực này. Trong mọi trường hợp, nhà trinh thám hiện thực hay đích thực có thể gây một tác động, trong khi nhà trinh thám giả tưởng hay không hiện thực không thể làm được.

Các triết gia như Kant, nhìn chung, đều dùng chữ “hiện thực” theo cách thứ nhất, như là từ đồng nghĩa với cái gì “đang tồn tại” hay “hiện hữu”, nhấn mạnh đến tính cách có thể tri giác được một cách cảm tính, tương phản với cái gì chỉ đơn thuần khả hữu, đơn thuần được suy tưởng hay tưởng tượng. Hegel không đồng tình hẳn với cách sử dụng này, và có xu hướng phủ nhận tính hiện thực không chỉ đối với cái gì đơn thuần khả hữu, mà cả đối với những thực thể bất tất, có cấp độ thấp kém về mặt bản thể học, đối với những thực thể dưới mức tiêu chuẩn hay không được phát triển tương ứng với loại hình của chúng, chẳng hạn đối với những NHÀ NƯỚC tồi tệ hay độc tài, đối với những trẻ em chưa hiện thực hóa được tiềm năng của chúng để trở thành những con người trưởng thành có lý tính. Đó là lý do tại sao Hegel gọi hiện thực là sự thống nhất của cái BÊN TRONG và cái BÊN NGOÀI (hay của BẢN CHẤT và sự HIỆN HỮU) - tức những phạm trù đi trước phạm trù hiện thực trong Khoa học Lô-gíc: một thực thể ở cấp thấp, chẳng hạn một cầu vồng là bất tất theo nghĩa sự hiện hữu của nó không phải là sản phẩm của bản tính bên trong hay của bản chất của chính nó mà chỉ phụ thuộc vào những thực thể khác; một nhà nước độc tài là một sự suy thoái của bản tính nhà nước; một đứa trẻ chưa hiện thực hóa bản tính bên trong của nó (nghĩa là trong chừng mực đó, nó còn phụ thuộc vào những người khác để được sống sót hiện nay và được phát triển trong tương lai).

Nhưng, đặc điểm đáng chú ý nơi Hegel là: ông không chỉ đơn thuần khẳng quyết cách sử dụng của riêng mình về từ “hiện thực”, trái lại, ông phát triển nó từ một sự xem xét các cách sử dụng khác. Bắt đầu với ý tưởng rằng cái hiện thực tương phản với cái gì đơn thuần khả hữu hay với cái gì chỉ được suy tưởng một cách nhất quán, không mâu thuẫn, ông cho rằng cái hiện thực theo nghĩa này là cái gì bất tất, nghĩa là có thể tồn tại cũng như có thể không tồn tại, bởi nó không được đặt cơ sở trong chính mình, mà trong một cái gì khác. Tuy nhiên, những thực thể bất tất, tức những hiện thực trực tiếp, cũng tạo nên những điều kiện cho một hiện thực đã được phát triển, tức cũng là tất yếu, bởi cả hai lẽ: tất cả mọi điều kiện cho việc hiện thực hóa nó đều có mặt, và bởi những điều kiện của nó đều được vượt bỏ hay được hấp thu vào trong chính nó, khiến cho, trong nghĩa đó, nó là độc lập và tự-quy định. Một “hiện thực đã phát triển” là một thực thể, chẳng hạn như một cơ thể sống hấp thu những đối tượng ngẫu nhiên trong môi trường của mình để thúc đẩy sự lớn mạnh của chính mình dựa theo một mẫu thức đã được bản tính bên trong quy định từ trước; giống như một tác nhân có lý tính sử dụng những gì mình gặp phải để hoàn thành một kế hoạch đã dự liệu; hay giống như một xã hội biến những vật liệu và sức mạnh trong môi trường của mình thành những cấu trúc có mục đích. Nhưng Hegel thường đặt ngang hàng cái hiện thực đúng thật với Thượng Đế, và cho rằng Thượng Đế (hay TINH THẦN thế giới) lèo lái những cái bất tất trong thế giới này để hướng đến việc hoàn tất một kế hoạch thần linh thông qua “sự ranh mãnh của LÝ TÍNH” (không khác mấy với “Bàn tay vô hình” của Adam Smith).

Trong Lời Tựa của THPQ, Hegel nói: “Cái gì hợp lý tính thì là hiện thực và cái gì hiện thực là hợp lý tính”. Thông thường, ta đặt cái thực tồn hay hiện thực tương phản với những ý tưởng hay tư tưởng. Rồi ta lại có thể làm cho cả hai đối lập với nhau, bằng cách cho rằng điều gì đó chỉ đơn thuần là một ý tưởng chứ không thực tồn hay không thể thực hiện được, hoặc ngược lại, cho rằng hiện thực là sai lầm bởi nó không tương ứng với những ý niệm hay những LÝ TƯỞNG của ta. Hegel muốn đả phá sự đối lập này. Theo ông, những tư tưởng, nhất là những “Ý NIỆM” không phải chủ yếu là những thực thể CHỦ QUAN, trái lại, là nội tại (immanent) ở trong hiện thực. Học thuyết này có các nghĩa sau đây:

(1) Nghĩa bản thể học: những sự vật không thể tồn tại, trừ khi chúng được cấu trúc hóa tương ứng với những tư tưởng của Khoa học Lô-gíc (có trật tự nhân quả, hiện thực V.V.);

(2) Nghĩa thăn học: những sự vật hoàn thành một kế hoạch thần linh;

(3) Nghĩa nhận thức luận: sự vật là hoàn toàn khả niệm và có thể nhận thức được;

(4) Nghĩa đánh giá: sự vật là hợp lý tính và tương ứng với những thước đo hợp lý tính.

(Các nhà diễn giải về triết học Hegel thường nhấn mạnh các phương diện khác nhau của học thuyết này, nhưng Hegel có tất cả chúng cùng một lúc trong đầu). Ngụ ý của học thuyết này đối với việc nghiên cứu chính trị và lịch sử là ở chỗ: không nên phê phán thực trạng hiện tại hay quá khứ hay khuyến nghị những thay đổi, mà chỉ đơn thuần nỗ lực tìm hiểu chúng và phát hiện tính lý tính của chúng, nghĩa là, cả tính khả niệm (tính có thể hiểu được) và sự biện minh tối hậu cho chúng. Những “ý tưởng” và những đề nghị của ta không tránh khỏi mang tính hời hợt khi so sánh với những “ý niệm” vốn đã khắc in trong bản tính của sự vật. Thái độ này xuất hiện lần đầu tiên trong HPĐ: “Nếu ta xem những gì đang là [tức đang hiện hữu] đúng như là nó phải là, rằng nó không phải là tùy tiện hay ngẫu nhiên, thì ta cũng thấy rằng nó phải là như nó đang là”.

Học thuyết này đã bị các nhà phê phán Hegel đả kích mạnh mẽ và được hiểu như là nỗ lực ngăn cấm sự phê phán hay cải cách đối với bất kỳ thực tiễn, định chẽ hay nhà cai trị nào. (Nếu học thuyết này áp dụng cho bất kỳ điểu gì đang xảy ra thì tự nó cũng làm cho mình mất tác dụng, trừ khi bản thân Hegel rút lại việc phê phán những ai đang phê phán hiện trạng và không được đề nghị rằng họ nên ngưng việc làm ấy!). Vì thế, trong ấn bản lần 2 của BKT (1827), ông nhấn mạnh rằng ông không hề xem bất cứ điều gì cũng là hiện thực, và rằng một số sự vật đang hiện hữu (cái bất tất, các ý tưởng tự phát, sai lầm, cái ác, và những gì chỉ đơn thuần có sự hiện hữu “cằn cỗi và phù du”) chỉ là VẺ NGOÀI (Erscheinung/ Anh: appearance) hơn là hiện thực (BKTI, §6) (những người ngần ngại không muốn thấy tính chất thần học trong Hegel có thể diễn giải yêu sách tiếp theo của Hegel rằng “chỉ có Thượng Đế mới là hiện thực đúng thật” thực ra có nghĩa rằng chỉ có cấu trúc lô-gíc của sự vật mới là hiện thực). Theo cách nhìn này, một nhà nước độc tài hay bất lực thì không phải là một nhà nước hiện thực, và không được miễn trừ khỏi sự phê phán và cải cách. Hegel là một nhà duy thực đối với các khái niệm và do đó tự tin rằng mình luôn được vô hại trước sự phản bác rằng, chẳng hạn, một nhà nước không đích thực lại có thể là một nền độc tài thực tồn hay hiện thực. Tuy nhiên, ông không cung cấp tiêu chuẩn rõ ràng nào cả để phân biệt cái hiện thực với cái vẻ ngoài: ngay cả những nhà nước tốt nhất cũng không phải không có khuyết điểm hay có thể trường tồn.

Học thuyết cho rằng cái hiện thực là hợp lý tính không đơn giản là một sản phẩm của thuyết bảo thủ của Hegel (tuy vậy, ông là bảo thủ theo nghĩa rằng ông ít hay nhiều chấp nhận hiện trạng, nhưng không phải theo nghĩa ông xem hiện trạng ấy là đáng mong muốn hay có thể vận dụng nhằm phục hồi trật tự cũ đã bị Cách mạng Pháp đánh đổ). Học thuyết này cũng thể hiện một xu hướng khắc kỷ và mang tinh thần Spinoza trong tư tưởng của ông; đó là niềm tin rằng nên thấu hiểu và chiêm nghiệm sự vật hơn là băn khoăn hay đòi thay đổi chúng và rằng sự Tự DO chính là ở chỗ thấu hiểu sự tất yếu, và sự thấu hiểu như thế cho phép ta chấp nhận thế giới như nó đang là hơn là thay đổi nó.

Bùi Văn Nam Sơn dịch

Từ điển triết học Kant

Hiện thực (tính) [Hy Lạp: energeia; Latinh: actus; Đức: Wirklichkeit; Anh: actuality]

Xem thêm: Hành động, Tồn tại, Hiện hữu, Khả thể, Định đề của Tư duy thường nghiệm, Nguyên tắc (những),

Ta có thể làm rõ việc sử dụng thuật ngữ hiện thực [tính] (actuality) của Kant trong định đề thứ hai của tư duy thường nghiệm bằng cách so sánh với thuật ngữ energeia vừa có nghĩa là hành động vừa có nghĩa là hiện thực của Aristoteles. Thuật ngữ hiện thực thường chỉ đến energeia được dùng chung với dynamis, một thuật ngữ được phiên dịch một cách nước đôi như khả thể hay như tính tiềm năng. Energeia có nghĩa là đem dynamis vào trong hoạt động, nhưng không cần đòi hỏi rằng dynamis phải được suy tưởng một cách hữu thể học hay nhận thức luận như đi trước energeia. [Vì] việc đưa ra một yêu sách như vậy hẳn sẽ đưa đến việc bắt cả hai thuật ngữ ấy phụ thuộc vào những sự quy định về mặt phạm trù của tồn tại. Điều này là không thể chấp nhận được, bởi energeia và dynamis đều có tính cách tiền-phạm trù; thật thế, đối với Aristoteles, chúng thậm chí còn làm phát sinh những phạm trù về chất, lượng, tình trạng và vị trí (Aristoteles, 1941, 20la, 10). Vì lý do này, tưong quan giữa chúng không thể được phát biểu bằng phạm trù, mà chỉ có thể bằng sự loại suy (xem Aristoteles, 1941, 1048a và 1065b).

Cho dù Kant xác định vị trí theo kiểu phạm trù cho nguyên tắc về tính hiện thực, dựa vào phạm trù tình thái thứ hai là hiện hữu/không hiện hữu, thì nó vẫn mang nhiều đặc trưng của quan điểm ban đầu của Aristoteles, nhưng đã được truyền thống Kitô giáo chế ngự. Luận cứ của Aristoteles về tính vĩnh cửu của vật chất và thế giới đã đặt ra những khó khăn rõ rệt cho học thuyết Kitô giáo về sự sáng tạo từ hư vô [ex nihilo] (xem “The condemnation of 1277” [Sự kết án năm 1277} trong Hyman và Walsh, 1984). Một giải pháp được những nhà kinh viện ưa thích là buộc sự khảo sát vũ trụ học về tính hiện thực (vốn có nguồn gốc trong những nỗ lực của Aristoteles muốn giải thích sự thay đổi - kinesis - trong quyển Physics) phụ thuộc vào một khảo sát có tính cách thần học-bản thể học (onto-theological). Vì thế, nổi Aquinas, Thượng đế tự-hiện thực hóa mà không cần phải có tính tiềm năng, trong khi thế giới nhận được cả tính tiềm năng lẫn tính hiện thực của nó từ Thượng đế như từ Đấng Sáng tạo (Aquinas, 1975, Quyển I, Chưong 16). Bằng cách này, hiện thực được xếp chồng lên vấn đề về sự hiện hữu của Thượng đế và thế giới; sự hiện hữu, hay việc biến một thế giới khả hữu thành hiện thực, được xem như một thuộc tính. Đối với Kant, truyền thống tư tưởng này được minh họa qua triết học của Christian Wolff, người đã bao hàm cả sự hiện hữu vào bên trong định nghĩa thuần lý về một tồn tại khả hữu.

Kant kiên quyết phản đối lập trường này trong suốt sự nghiệp của ông; nó khơi dậy sự phát triển của nhiều lập trường đặc trưng của ông, chẳng hạn như học thuyết về trực quan. Trong HHTĐ, ông đưa ra yêu sách đáng tuyên dương chống lại Wolff rằng “bản thân sự hiện hữu không thể là một thuộc tính” (tr. 74, 120) và ông lập luận rằng cái hiện thực và cái khả hữu là dị biệt nhau về loại (genre). Việc thêm thuộc tính “hiện hữu” như một cái bổ sung vào cho một tồn tại khả hữu không đủ để biến tồn tại ấy thành hiện thực. Ở giai đoạn này trong lập luận của mình, Kant đã phát triển một sự phân biệt tinh vi giữa sự hiện hữu được thiết định “trong” một tồn tại khả hữu với sự hiện hữu được thiết định “thông qua” tồn tại ấy (tr. 75, 121). Tuy nhiên, trong “Những Định đê của Tư duy thường nghiệm nói chung” của PPLTTT, Kant thay đổi tận gốc sự đối lập truyền thống giữa khả thể với hiện thực bằng cách phân biệt cái gì có thể có trên phương diện logic và cái gì tuân theo các mô thức của trực quan trên phương diện hiện thực.

Những định đề đặt ra những điều kiện cho sự sử dụng thường nghiệm các khái niệm tình thái về khả thể, hiện thực và tất yếu. Định đề thứ hai định nghĩa cái hiện thực như là “cái gì nối kết với các điêu kiện chất thể của kỉnh nghiệm (của cảm giác)” (PPLTTT A 218/ B 266). Tuy nhiên, hiện thực không được bảo đảm chỉ nhờ bởi cảm giác đơn thuần, không được nối kết, mà thông qua một “cảm giác vê cái mà ta có ỷ thức” hay tri giác. Tuy nhiên, tự nó, tri giác bị chi phối bởi những loại suy của kinh nghiệm, thế nên hiện thực cần phải tuân theo những quy tắc chi phối một kinh nghiệm khả hữu. Tuy vậy, như nơi Aristoteles, hiện thực không bổ sung sự hiện hữu vào cho khả thể một cách đơn giản, mà nó có thể đi trước khả thể ấy. Nó có thể hiện thực hóa một khái niệm khả hữu, nhưng nó cũng có thể được biểu lộ trong một tri giác thiếu một khái niệm. Vì vậy, khi Kant du nhập tính hiện thực như là nguyên tắc của một phạm trù riêng biệt, thì ta sẽ sớm thấy rõ rằng nó cũng làm nền tảng cho mọi hình thức phán đoán mang tính phạm trù, vì những phán đoán ấy hiện thực hóa các khái niệm bằng cách xác định chúng dựa theo những điều kiện của sự hiện hữu trong thời gian.

Có hai đặc điểm trong sự bàn luận của Kant về hiện thực rất quan trọng đối với những triết gia về sau: 1) nó không đơn thuần có nghĩa là “thực tại” hay cảm giác, mà là tri giác phù hợp với những loại suy về sự thường tồn, sự tiếp diễn và sự cùng tồn tại; 2) nó vừa là một nguyên tắc có tính phạm trù vừa là điều kiện cho sự tổng hợp có tính phạm trù. Vì thế nổi Fichte, có hai hiện thực: một hiện thực là hoạt động có tính sáng tạo căn nguyên của “cái Tôi”, trong khi hiện thực kia là kết quả của nhận thức phân biệt nó với khả thể (Fichte, 1794, tr. 206-208). Hegel vượt bỏ sự phân biệt này bằng cách mô tả hiện thực vừa như là cái tuyệt đối, vừa như là những mô men được tách biệt về mặt hình thức của nó. Trong Logic [Khoa học Logic], Hegel đưa ra một phân tích hiện tượng học về hành trình của hiện thực từ những sự khởi đầu của nó trong tồn tại như hoạt động rồi thông qua những sự phản tư của nó trong các phạm trù về bản chất và hiện tượng (hiện thực đối lập với khả thể như cái bên ngoài đối lập với cái bên trong), đến “mối quan hệ tuyệt đỗi” của cái tuyệt đối với sự phản tư của nó (Hegel, 1812, tr. 529-571; 1830, tr. 257-267).

Trong suốt thế kỷ XIX, hiện thực (Wirklichkeit/actuality) ngày càng bị lẫn lộn với “thực tại” (“reality”); khẩu hiệu của Hegel rằng “cái gì hợp lý tính thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý tính” (1821, tr. 20) là một tai họa ban đầu. Marx khi phê phán Hegel đã quy giảm cái hợp lý tính thành cái ý thể và cái hiện thực thành cái thực tại, vì thế đã xóa đi tính cách năng động của hiện thực. Tuy vậy, hai nghĩa của Kant về hiện thực đã được Husserl khôi phục lại trong thế kỷ XX, Husserl đã phân biệt những hiện thực tiềm tàng (dormant actuality) với những hiện thực tiêu điểm (focal actuality): những hiện thực tiềm tàng được tri giác như hiện diện trong lĩnh vực trực quan, nhưng không được “lọc ra [từng cái một] ”; chúng hình thành một đặc khu để những hiện thực tiêu điểm xuất hiện (Husserl, 1913, tr. 105-107). Theo tư tưởng về sau của ông, chúng hình thành một sinh giới, có tính hiện thực nhưng không được đặt thành vấn đề (unthematized), mà từ đó ta có thể rút ra những đối tượng tiêu điểm và những mối quan hệ tiêu điểm.

Hàm ý nổi Kant và Husserl rằng hiện thực được đánh dấu bằng “sự hiện diện” - bằng việc mang lại sự hiện diện hay bằng sự hiện diện của các sự vật - đã bị Heidegger phê phán trong Sein und Zeit [Tồn tại và Thời gian]. Ông đối lập hiện thực như việc mang lại sự hiện diện cho khả thể với sự hiện thực hóa khả thể của cái chết. Cái trước “thủ tiêu khả thê của cái khả hữu bằng việc làm cho nó có thể dùng được đối với ta” (Heidegger, 1927, tr. 305); trong khi cái sau được hiện thực hóa thành một khả thể “càng cách xa càng tốt với cái gì hiện thực”, và khả thể ấy là “khả thể của sự hiện hữu đích thực” (sđd, tr. 307). Qua những bình luận này, Heidegger bắt đầu một sự tái-mô tả mối quan hệ giữa hiện thực với hành động vốn xuyên suốt nơi quan niệm của Aristoteles về energeia.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Actuality

Hiện thực tánh.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

actuality

[VI] Hiện thực

[DE] Wirklichkeit

[EN] actuality

actuality,effectivity

[VI] Hiện thực

[DE] Wirklichkeit

[EN] actuality; effectivity

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

actuality

1. Hiện thực tính, thực hiện tính, thực tế tính, chân thực tính, thực tại tính 2. Hiện thực, hiện tồn, thực tại, chân thực 3. Giới thực tại.

5000 từ vựng thông dụng Anh-Anh

actuality

Any reality.