Nguyên tắc [Hy Lạp: arche, Latinh: principium; Đức: Grundsatz; Anh: principles]
Xem thêm: Nguyên tắc của lý tính thực hành (các), Nguyên tắc của giác tính thuần túy (các),
Theo nghĩa cổ điển, một nguyên tắc là một sự bắt đầu hay một điểm xuất phát có cả đặc trưng bản thể học lẫn đặc trưng logic học. Đối với Kant, điểm chính của triết học hiện đại là “đưa ra” những nguyên tắc thỏa ứng cho những sự phân chia triết học theo triết học Hy Lạp cổ điển thành vật lý học, đạo đức học và logic học (CSSĐ, tr. 388, tr. 1).
Khi bàn đến các nghiên cứu “tiền-Socrate” và Platon về arche (nguyên tắc) trong cuốn Siêu hĩnh học (1941, 983b-988b), Aristoteles mô tả một sự phát triển từ nguyên tắc một bản nguyên vật chất của Thales, mà Thales gọi là “nước”, đến nguyên tắc nhiều bản nguyên vật chất của Empedocles. Theo Aristoteles, vấn đề này được tiếp tục ở Platon với đề xuất rằng “các ý niệm” là những nguyên tắc, và sau đó chính Aristoteles tiếp tục bằng việc ông quyết định triển khai các nguyên tắc xoay quanh quan hệ nhân quả: nguyên nhân chất liệu, nguyên nhân tác động, nguyên nhân mô thức, nguyên nhân mục đích. Các nguyên tắc này là Cổ sở bản thể học nền tảng cho tất cả những gì đang tồn tại, đồng thời là nguồn suối cuối cùng của tri thức. Sự mập mờ nước đôi giữa hai nghĩa này đã trở nên rõ ràng trong hai thuật ngữ được dùng để dịch chữ arche-. “cơ sở” bản thể học và “căn cứ” nhận thức luận.
Với truyền thống triết học Wolff, Grund (cơ sở) và ratio (căn cứ) là đồng nghĩa (xem Wolff, 1719, và Meissner, 1737); vì với các nhà duy lý, căn cứ cho tồn tại đồng thời là cơ sở để tồn tại. Vì vậy, khoa học về các nguyên tắc - hay “về nhận thức của chúng ta và về các sự vật nói chung”, theo chữ của Wolff - là bản thể học. Với những người theo thuyết Wolff, hai nguyên tắc cơ bản chung cho cả tồn tại lẫn nhận thức thực sự là những mệnh đề cơ sở (Grundsätze). Cơ bản nhất là nguyên tắc [loại trừ] mâu thuẫn, tức nguyên tắc phát biểu rằng sự vật không thể đồng thời vừa tồn tại lại vừa không tồn tại, sau đó là nguyên tắc căn cứ đầy đủ, tức nguyên tắc phát biểu rằng tất cả những gì đang tồn tại đều có một căn cứ hay một cơ sở để tồn tại.
Trong các trước tác thời kỳ tiền phê phán, Kant phê phán Wolff đã thay căn cứ cho nhận thức bằng cơ sở của tồn tại. Sự phê phán này sau đó được phát triển trong PPLTTT thành sự phân biệt giữa logic học hình thức và logic học siêu nghiệm: logic học hình thức được hợp thành từ các phán đoán phân tích, còn logic học siêu nghiệm thì từ các phán đoán tổng hợp tiên nghiệm. Mỗi loại logic này và những phán đoán của chúng đều có một Grundsatz hay một Nguyên tắc tối cao; với phán đoán phân tích, đó là nguyên tắc mâu thuẫn, trong khi với phán đoán tổng hợp tiên nghiệm, đó là “các điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm” (PPLTTT, A 158/B 197). Điều này có nghĩa là những điều kiện cho một kinh nghiệm rõ ràng cũng quy định những đối tượng của kinh nghiệm ấy - làm nổi bật một nỗ lực tư biện triết học đặt tồn tại và logic ngang hàng nhau, và nỗ lực này là đặc trưng của toàn bộ triết học phê phán. Heidegger nhận xét: “Ai hiểu được nguyên tắc này là hiểu được cuốn Phê phán lý tính thuẫn túy của Kant” (1935, tr. 183). Thế hệ các trief gia trực tiếp sau Kant, như Reinhold và Fichte, thiên về việc nhấn mạnh cái nguồn gốc diễn dịch và thuần lý của các nguyên tắc hơn là cái nguồn gốc thường nghiệm; những người theo thuyết Kant-mới sau này trong thế kỷ XIX lại nhấn mạnh đến các nguồn gốc thường nghiệm của chúng trong việc thực hành các khoa học tự nhiên và nhân văn.
Trong L, Kant cũng bàn đến các nguyên tắc và mô tả chúng như là “các phán đoán tiên nghiệm chắc chắn trực tiếp” từ đó “các phán đoán khác được chứng minh... nhưng bản thân chúng không phụ thuộc vào bất cứ phán đoán nào khác” (tr. 606). Hon nữa, ông còn phân chia chúng thành hai loại: những nguyên tắc trực quan (hay các tiên đề), và các nguyên tắc suy lý (hay các suy lý), xem mọi nguyên tắc triết học là thuộc về cái sau. Sự phân biệt này trước hết được phát triển trong THTN, một cuốn sách chống lại thuyết Wolff, nhằm làm rõ sự khác nhau giữa các phương pháp chứng minh toán học và chứng minh triết học. Trong triết học thực hành, Kant có bàn thêm về các nguyên tắc, nhưng lại theo một hướng khác; theo đó, các nguyên tắc có vai trò như là nguồn suối của các châm ngôn cho việc quy định ý chí.
Đinh Hồng Phúc dịch
Năng động (các phạm trù, các nguyên tắc và các ý niệm năng động) [Đức: dynamische Kategorien, Grundsätze und Ideen; Anh: dynamical categories, principles, and ideas]
Xem thêm: Suy lý, Tiên đề, Phạm trù, Ý niệm, Nguyên tắc, Ý niệm điều hành, Cao cả,
Trong “Biện chứng pháp siêu nghiệm” của cuốn PPLTTT, Kant nói đến một “sự khác biệt cơ bản giữa những đối tượng, tức là giữa những khái niệm của giác tính, - những khái niệm đã được lý tính cố tình nâng lên thành các Ý niệm” (PPLTTT A529/ B557). Đây là sự phân biệt giữa các phạm trù và các nguyên tắc toán học với các phạm trù và các nguyên tắc năng động. Bảng các phạm trù gồm 12 phạm trù được xếp dưới bốn đề mục: Lượng, Chất, Tương quan, Tình thái. Hai nhóm đầu được xác định như các phạm trù có tính toán học; hai nhóm sau được xem như các phạm trù có tính năng động. Các phạm trù toán học về lượng và chất “hướng đến các đối tượng của trực quan (thuần túy lẫn thường nghiệm)”, trong khi các phạm trù năng động về tương quan và tình thái “hướng đến sự tồn tại của các đối tượng này (hoặc trong quan hệ với nhau hoặc với giác tính)” (PPLTTT B 110). Để áp dụng các phạm trù vào kinh nghiệm khả hữu, cần phải biến chúng thành những nguyên tắc, và các nguyên tắc
này cũng được bàn đến trong “Phân tích pháp các nguyên tắc”, và được phân chia thành những nguyên tắc có tính toán học và các nguyên tắc năng động.
Các nguyên tắc toán học gồm các tiên đề của trực quan và các dự đoán của tri giác, và có tính cấu tạo cho trực quan. Vì kinh nghiệm là không thể có được nếu không có trực quan, nguyên tắc hình thành “các điều kiện tuyệt đối cần thiết của mọi kinh nghiệm khả hữu” và sự sử dụng của chúng “là có tính tất yếu vô điều kiện, nghĩa là “tất nhiên” (apodiktisch)” (PPLTTT A 160/ B 199). Các nguyên tắc năng động của những loại suy của kinh nghiệm và những định đề của tư duy thường nghiệm xác định “sự tồn tại của đối tượng của một trực quan thường nghiệm khả hữu” và không tất nhiên. Tuy nhiên, chúng có tính cấu tạo cho kinh nghiệm thường nghiệm, và vì thế “có tính cách của một sự tất yếu tiên nghiệm”, nhưng sự tất yếu này chỉ có thể được chứng minh sau sự kiện của kinh nghiệm, và vì thế “không chứa đựng sự hiển nhiên trực tiếp vốn là đặc điểm của các nguyên tắc thuộc loại trước (mặc dù khi áp dụng vào kinh nghiệm tính xác tín của chúng vẫn không bị tổn hại gì)” (PPLTTT A 160/ B 200). Các nguyên tắc toán học trình bày các điều kiện cần thiết cho một đối tượng xuất hiện ra trong không gian và thời gian, trong khi các nguyên tắc năng động trình bày các điều kiện cần thiết cho một đối tượng xuất hiện ra cho ta, nhất là trong những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác (phương diện tương quan) và xuất hiện ra cho giác tính của ta (phương diện tình thái). Tuy nhiên, cả hai nhóm các nguyên tắc này đều có tính cấu tạo cho kinh nghiệm, nguyên tắc toán học có tính cấu tạo trực tiếp cho trực quan, nguyên tắc năng động “làm cho các khái niệm có thể có được một cách tiên nghiệm và nếu không có chúng, kinh nghiệm cũng không thể có được” (PPLTTT A 664/ B 692).
Với bàn luận về các ý niệm toán học và các ý niệm năng động, sự khác biệt càng cốt yếu hơn. Nếu cả bốn nghịch lý đều được xử lý như thể chúng có tính toán học, như thể điều kiện là đồng tính với cái có-điều kiện, hay “những điều kiện được nối kết với cái có-điều kiện như là những mắt xích của chuỗi” (PPLTTT A 528/ B 556), thế thì các nghịch lý ắt sẽ tỏ ra không thể giải quyết được. Bởi lẽ, trong trường hợp của “sự nối kết những chuỗi hiện tượng một cách toán học, không thể chấp nhận cái gì khác hơn là điều kiện cảm tính, tức là một điều kiện mà bản thân cũng phải là một bộ phận của chuỗi”, nhưng nếu sự nối kết những chuỗi này được suy tưởng về mặt năng động, dựa theo một “sự tổng hợp của cái dị tính” thì “một điều kiện dị tính [không cùng loại], tức bản thân không phải là một bộ phận của chuỗi, mà như là đơn thuẫn khả niệm [chỉ có thể suy tưởng được] nằm bên ngoài chuỗi, có thể thỏa mãn được lý tính” (PPLTTT A 530/ B 558). Với quan niệm này về chuỗi, ta có thể thỏa mãn cả giác tính lẫn lý tính đối với các nghịch lý trước hết là về sự tự do và tính nhân quả, sau đó là về tính bất tất và một hữu thể tất yếu. Trong trường hợp này, lý tính không thể được sử dụng một cách cấu tạo, mà chỉ được sử dụng một cách điều hành thông qua các châm ngôn cho sự thống nhất có hệ thống của sự sử dụng của giác tính.
Sự phân biệt giữa tính toán học và tính năng động còn có tầm ý nghĩa trong “Phân tích pháp vê cái Cao cổ” trong PPNLPĐ, ở đó sự khác biệt của “cái toán học” và “cái năng động” thay chỗ cho “bảng các phạm trù” được sử dụng trong “Phân tích pháp vê cái Đẹp”. Trong trường hợp đầu, đối tượng cao cả được xem xét “trên phương diện toán học” dựa vào độ lớn, như cái gì “lớn một cách tuyệt đối” hoặc “lớn vượt lên hẳn mọi sự so sánh” (PPNLPĐ § 25). Trong trường hợp sau, cái cao cả năng động được biểu lộ bằng “sự tác động đến trí tưởng tượng” của nó hay sự sợ hãi và khiếp sợ nảy sinh nơi người xem bởi cảnh tượng cao cả.
Châu Văn Ninh dịch
Nghệ thuật [Hy Lạp: techne; Latinh: ars; Đức: Kunst; Anh: art]
Xem thêm: Hành động, Cảm nănghọc/Mỹ học, Đẹp (cái), Tài khéo,
Kant đi theo định nghĩa của Aristoteles về nghệ thuật như một kỹ năng hay tâm thế trong việc tạo ra các sự vật. Theo định nghĩa này, một “tác phẩm nghệ thuật” là bất cứ cái gì được tạo ra qua sự thực hành một nghệ thuật. Trong quyển Đạo đức học Nicomachus (Aristoteles, 1941, 1140a) và quyển Phân tích pháp II (100a, 3-9), Aristoteles tập hợp những sự sử dụng khác nhau của Platon về thuật ngữ này thành một sự phân biệt nghiêm ngặt giữa kỹ thuật (techne) tạo ra các sự vật (poiesis), tri thức của nhận thức lý thuyết (theoria), và sự cân nhắc (phronesis) của hành động (praxis). Nghệ thuật là ở chỗ các quy luật được khái quát hóa từ kinh nghiệm và được áp dụng để hiện thực hóa một ý đồ.
Sự phân biệt ấy đã có một ảnh hưởng cực kỳ lâu dài và rộng rãi. Aquinas định nghĩa nghệ thuật “không gì khác hơn là lý do đúng về các công việc nhất định phải được làm” (Aquinas, 1952, II, 57, 3), nhưng ông phân biệt giữa các nghệ thuật lệ thuộc “được định ra cho các công việc phải được làm bằng thể xác” với các nghệ thuật của linh hồn hay “các nghệ thuật tự do”. Cái sau hình thành cơ sở cho chương trình giảng dạy thời trung đại sơ kỳ về bảy môn nghệ thuật tự do được chia thành bộ ba (trivium) (ngữ pháp, biện chứng pháp, tu từ học) và bộ bốn (quadrivium) (số học, hình học, thiên văn học, âm nhạc). Vào thế kỷ XVIII, dù nghĩa của nghệ thuật như là một kỹ năng vẫn còn được giữ lại, nhưng nó thường được minh họa bằng sự quy chiếu đến nghệ thuật sáng tạo thi ca hay hội họa. Quyển Từ vựng Triết học (Philosophisches Lexicon, 1737) theo trường phái Wolff của Meissner định nghĩa chữ “Kunst” như “năng lực” hoặc “kỹ năng” của một người “hình thành một sự vật bên ngoài chính mình”, chẳng hạn như “kĩ năng viết nên một bài thơ của một thi sĩ”.
Sự bàn luận chính của Kant về nghệ thuật được thấy trong các tiểu mục §§43-53 của cuốn PPNLPĐ. Ông định nghĩa nghệ thuật như “tài khéo của con người, được phân biệt với khoa học (tức năng lực có được từ tri thức), giống như sự phân biệt giữa năng lực thực hành với năng lực lý thuyết, giữa kỹ năng với lý luận (giống như phân biệt giữa thuật đo đạc với môn hình học)” (PPNLPĐ § 43). Ông dành sự chú ý đặc biệt cho mỹ thuật, phân biệt các hoạt động ấy với nghề thủ công, là công việc tạo tác mà không cần có một ý đồ [nội dung], và các nghệ thuật máy móc hiện thực hóa ý đồ của chúng một cách hoàn hảo. Sự thực hành mỹ thuật tạo ra các tác phẩm, và nghịch lý thay, những tác phẩm này “phải được nhìn giống như thể là tự nhiên, cho dù ta ý thức rõ ràng đó là nghệ thuật” (PPNLPĐ § 45). Việc xem xét loại nghệ thuật tác tạo này đã dẫn Kant đến lý thuyết về tài năng thiên bẩm của ông, được xem như năng lực hay tâm thế tạo ra các tác phẩm nghệ thuật đúng đắn nhưng không cho thấy có dấu vết gì “của việc quy tắc luôn chập chờn trước mắt và trói buộc các năng lực tâm thức của người nghệ sĩ” (PPNLPĐ § 45).
Kant phân loại các mỹ thuật bằng một sự tương tự [loại suy] với ba cách thức mà con người truyền thông với nhau: thông qua lời nói, điệu bộ và âm thanh. Các nghệ thuật lời nói là tu từ học và thơ ca, các nghệ thuật của điệu bộ (hay “các nghệ thuật tạo hình”) gồm các nghệ thuật tạo hình như kiến trúc và điêu khắc và nghệ thuật hội họa, trong khi các nghệ thuật âm thanh gồm các nghệ thuật âm nhạc và màu sắc. Ông cũng thừa nhận các nghệ thuật hỗn hợp. Chìa khóa để hiểu những sự phân chia ấy là phải nhớ rằng chúng quy chiếu đến các kỹ năng hay những thực hành, chứ không chủ yếu đến các đối tượng. Ta cũng có thể nói tương tự thế khi ông quy chiếu đến thuyết niệm thức trong PPLTTT như là “một tài nghệ ẩn tàng tận trong đáy sâu của tâm hồn con người” (A 141, B 181) - nó là một kỹ năng hay một hoạt động tạo ra các niệm thức, chứ không phải tạo ra chính bản thân một đối tượng.
Triết học nghệ thuật của Kant thường bị lẫn lộn với nghiên cứu của ông về mỹ học, hay sự mổ xẻ của ông về năng lực phán đoán thẩm mỹ. Điều này cho phép nhiều người kế tục ông, kể cả Schiller và Hegel, phê phán ông vì đã tạo ra một mỹ học loại trừ sự sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật. Thực tế, nghiên cứu của ông nối kết các phương diện của nghiên cứu theo truyền thống Aristoteles về nghệ thuật như một kỹ năng với sự nhấn mạnh mới về mỹ thuật. Sự nối kết này đã có tầm quan trọng đáng kể trong các cuộc tranh luận gần đây trong bộ môn mỹ học, là các cuộc tranh luận đang tìm cách phục hồi yếu tố kỹ năng khi nghiên cứu về sự sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật.
Trần Kỳ Đồng dịch
Nguyên tắc của lý tính thực hành (các) [Đức: Grundsätze der praktischen Vernunft; Anh: principles of practical reason]
Xem thêm: Mệnh lệnh nhất quyết, Tự do, Thiện (cái), Mệnh lệnh, Châm ngôn, Ý chí,
Các nguyên tắc của lý tính thực hành là những mệnh đề diễn tả một sự quy định phổ biến của ý chí. Chúng là những châm ngôn chủ quan khi có giá trị cho ý chí của con người, nhưng lại là những quy luật thực hành khách quan khi có giá trị cho mọi hữu thể có lý tính. (PPLTTH, tr. 19, tr. 17). Phân tích của Kant về các nguyên tắc thực hành diễn ra theo hai hướng: một sự phân tích nghi vấn các ứng viên thích hợp cho các nguyên tắc của lý tính thực hành trong các trước tác thời kỳ tiền phê phán và trong CSSĐ, và một sự trình bày tổng hợp về các nguyên tắc xác định một ý chí thuần túy trong PPLTTH và SHHĐL.
Phân tích nghi vấn phân biệt hai ứng viên thích hợp cho các nguyên tắc khả hữu của hành động thực hành. Cái đầu là nguyên tắc theo truyền thống Wolff về sự hoàn hảo, được Kant phát biểu là “tránh làm những gì sẽ cản trở việc hiện thực hóa sự hoàn hảo khả hữu nhất” (THTN, tr. 299, tr. 273). Kant xem ứng viên ấy - giống như nguyên tắc mâu thuẫn của Wolff trong triết học lý thuyết- là trống rỗng và không thể dùng làm nguồn suối cho một bổn phận xác định được. Đối với những nguyên tắc riêng lẻ, có tính chất liệu như vui sướng, hạnh phúc và cảm quan luân lý, thì nguyên tắc ấy là “mù quáng”, không thể mang lại tính phổ quát và tính tất yếu như đòi hỏi của một nguyên tắc thực hành. Một ngõ cụt tư ổng tự cũng gặp phải trong SHHĐL, ở đó cả nguyên tắc “thuần lý” về “sự hoàn hảo” lẫn nguyên tắc “thường nghiệm” về “cảm quan luân lý” đều được nhận thấy là không đủ để đáp ứng như là một “nguyên tắc tối cao của luân lý”.
Nguyên tắc thực hành thỏa ứng duy nhất được thừa nhận trong SHHĐL là “sự tự trị của ý chí” - cho rằng ý chí tự ban bố luật cho bản thân nó. Một nguyên tắc như thế sẽ được con người trải nghiệm như là mệnh lệnh, và có thể được phát biểu trong mệnh lệnh nhất quyết: “Hãy hành động sao cho châm ngôn của ý chí của bạn lúc nào cũng đồng thời có thể có giá trị như là nguyên tắc của một sự ban bố quy luật phổ biến” (SHHĐL tr. 440, tr. 44; xem thêm PPLTTH tr. 30, tr. 30). Rồi Kant cố gắng chứng minh, trước hết trong PPLTTH, rằng nguyên tắc này tránh được sự dị trị của những nguyên tắc chất liệu và những nguyên tắc mô thức đã bị bác bỏ. Những kết luận của ông đã khiến cho người đọc phải suy nghĩ, nhưng không mấy thuyết phục. Chúng được tiếp tục triển khai thành “Những nguyên tắc siêu hình học” chi tiết hon trong các học thuyết về “Pháp quyền” và “Đức hạnh”, hai bộ phận của quyển SHHĐL.
Đinh Hồng Phúc dịch
Nguyên tắc của giác tính thuần túy (các) [Đức; Grundsätze des reinen Verstandes; Anh: principles of pure understanding]
Xem thêm: Loại suy của kinh nghiệm (các), Dự đoán của trỉ giác (các), tiên đề của trực quan (các), định đề của tư duy thường nghiệm (các),
“Các nguyên tắc của giác tính thuần túy” được bàn thảo ở Chương 2 phần “Học thuyết siêu nghiệm về phán đoán” (hay “Phân tích pháp các nguyên tắc”) trong PPLTTT. Kant mở đầu rằng các nguyên tắc chứa đựng trong bản thân chúng những cơ sở cho các phán đoán khác, trong khi bản thân chúng không được rút ra từ một nguyên tắc cao hơn (PPLTTT A149/B 188). Một nguyên tắc là khó chứng minh bởi nó có “đặc điểm riêng là: vừa làm cơ sở cho chứng minh về khả thể của nó, đó là kinh nghiệm, có thể có được; vừa luôn phải lấy kinh nghiệm này làm tiền đề tiên quyết” (PPLTTT A 737/B 765). Sự chứng minh một nguyên tắc, một công việc “thực sự cần thiết”, phải được xác lập trên cơ sở của kinh nghiệm mà nó có thể làm cho khả hữu, và trong trường hợp này là “nhận thức về một đối tượng nói chung” (A 149/B 188).
Kant phân biệt những nguyên tắc có quan hệ với các phạm trù và những nguyên tắc có quan hệ với trực quan. Cái sau gồm những nguyên tắc như “không gian và thời gian là những điều kiện khả thể cho mọi sự vật xuất hiện như là những hiện tượng” (PPLTTT A 149/B 188). Rồi ông phân biệt những nguyên tắc của các phán đoán phân tích và những nguyên tắc của các phán đoán tổng hợp, phát hiện ra hai nguyên tắc nền tảng khác nhau cho mỗi loại phán đoán. Nguyên tắc của các phán đoán phân tích chính là nguyên tắc [loại trừ] mâu thuẫn có vai trò như là nguyên tắc nền tảng của bản thể học/lôgíc học Wolff; đối với Kant, “nó là của môn Logic” và là một “tiêu chuẩn phổ biến nhưng thuần túy tiêu cực của chân lý” (PPLTTT, A 151/B 190). Nó chỉ thuộc về sự sử dụng có giới hạn trong các phán đoán tổng hợp của môn Logic học siêu nghiệm, là môn cũng có một đặc điểm bản thể học. Để biện minh những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm, ta cần phải phát hiện một nguyên tắc (Grundsatz) hay những nguyên tắc (Grundsätze), hay những nguyên tắc cơ bản, có thể mang đến cho một khái niệm một đối tượng, hay theo một nghĩa tổng quát, có khả năng nối kết logic học với bản thể học.
Kant nhận thấy nguyên tắc lôgíc-bản thể học này trong phát biểu rằng “những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm” (PPLTTT, A 158/B 197). Nói cách khác, những điều kiện nào khiến cho kinh nghiệm là khả hữu thì chính chúng cũng làm cho những đối tượng của kinh nghiệm là khả hữu. Kant nói cụ thể những điều kiện này là những điều kiện của (a) “những điều kiện mô thức của trực quan tiên nghiệm”, (b) “sự tổng hợp của trí tưởng tượng” và (c) “sự thống nhất tất yếu của tổng hợp ấy trong một Thông giác siêu nghiệm” (sđd). Điều kiện (a) quy chiếu đến kinh nghiệm con người về không gian và thời gian, điều kiện (b) quy chiếu đến sự trình bày về các đối tượng của trực quan cho giác tính; và điều kiện (c) quy chiếu đến các phạm trù của giác tính. Về cơ bản, các nguyên tắc phát biểu rằng sự nối kết của ba điều kiện này nhất thiết phải cấu tạo một kinh nghiệm rõ ràng cũng như cấu tạo những đối tượng của kinh nghiệm, hay các hiện tượng xuất hiện ra trong không gian và thời gian.
Vì có nhiều phạm trù nên cũng có nhiều nguyên tắc; thực vậy, có một nhóm các nguyên tắc tương ứng với một nhóm các phạm trù. Các phạm trù về lượng tương ứng với “các tiên đề của trực quan”; các phạm trù về chất tương ứng với “các dự đoán của tri giác”; các phạm trù về tương quan tương ứng với “các loại suy của kinh nghiệm”; và các phạm trù về tình thái tương ứng với “các định đề của tư duy thường nghiệm”. Kinh nghiệm của chúng ta không đơn thuần là trực quan hoặc trực tiếp là phạm trù, mà nối kết trực quan, sự trình bày hình ảnh và các phạm trù. Các nguyên tắc nói chung xác định những sự vật xuất hiện trong thời gian như thế nào, hay các nhóm lượng, chất, tương quan, tình thái của phạm trù được thỏa ứng với kinh nghiệm bị giới hạn trong không-thời gian của một tồn tại hữu hạn (con người).
Hệ thống các nguyên tắc là kết quả của việc Kant đã xử lý lại di sản bản thể học của triết học kinh viện vốn đã được Wolff đưa vào trong “phân tích pháp siêu nghiệm”. Trong quãng “thập niên im lặng” những năm 1770, Kant âm thầm giải quyết vấn đề về việc chuyển đổi những thuộc tính bản thể học truyền thống thành những nguyên tắc thời gian trong “Phân tích pháp siêu nghiệm” mới. Thay vì những thuộc tính bản thể học về lượng như nhất thể và đa thể, Kant đưa ra nguyên tắc về đại lượng; thay vì những thuộc tính bản thể học về chất là tồn tại và hư vô, ông đưa ra nguyên tắc về cường độ. Cũng như vậy, ông thay thế các tương quan bản thể học có hiệu lực vĩnh hằng như bản thể và tùy thể, nguyên nhân và kết quả, và cộng đồng tương tác bằng các nguyên tắc đặc thù về mặt thời gian về sự tương quan trong “Các loại suy của kinh nghiệm”, cũng như ông đã thay thế những thuộc tính tình thái của khả năng, hiện thực và tất yếu.
Sự phát triển của Kant về các nguyên tắc là một trong những thành tích hiển hách nhất của ông và là nơi tinh thần triệt để triết học của ông hầu hết được tuyên bố và trở nên hiển nhiên. Điều đáng tiếc là, trừ lối đọc bản thể học về Kant do Heidegger (1927) và Heimsoeth (1956) khởi xướng ra, sự phô diễn luận chứng triết học đẹp mắt trong các nguyên tắc đã bị sự bàn luận về sự diễn dịch kém sắc sảo về các phạm trù làm cho mờ nhạt đi.
Đinh Hồng Phúc dịch