TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

allgemeine

Phương trình về chất khí

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

tổng quát

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

sub n cái chung

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Tư vấn sinh viên

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

chung

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

logic học phổ biến/siêu nghiệm

 
Từ điển triết học Kant

logic học phổ biến

 
Từ điển triết học Kant

siêu nghiệm

 
Từ điển triết học Kant
das allgemeine

phổ quát/phổ biến

 
Từ điển triết học HEGEL

phổ quát

 
Từ điển triết học HEGEL

phổ biến

 
Từ điển triết học HEGEL

phổ biến/phổ quát

 
Từ điển triết học HEGEL

đặc thù và cá biệt/đơn nhất

 
Từ điển triết học HEGEL

đặc thù và cá biệt

 
Từ điển triết học HEGEL

đơn nhất

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

allgemeine

blanket

 
Lexikon xây dựng Anh-Đức

general gas equation

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)

Gas equation

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

ideal

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

general student advice/counselling

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

logic general/transcendental

 
Từ điển triết học Kant

logic general

 
Từ điển triết học Kant

transcendental

 
Từ điển triết học Kant
das allgemeine

universal

 
Từ điển triết học HEGEL

particular and individual

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

allgemeine

allgemeine

 
Lexikon xây dựng Anh-Đức
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển triết học Kant

Gasgleichung

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Studienberatung

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

allgemeine/transzendentale logik

 
Từ điển triết học Kant

transzendentale logik

 
Từ điển triết học Kant
das allgemeine

das allgemeine

 
Từ điển triết học HEGEL
Metzler Lexikon Philosophie

das besondere und das einzelne

 
Từ điển triết học HEGEL

Allgemein

 
Metzler Lexikon Philosophie

Pháp

allgemeine

Conseils aux étudiants

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

général

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Chuyên ngành CN Hóa (nnt)

Allgemeine Zahlen

Số tổng quát

Allgemeine Baustähle

Thép xây dụng thông thường

Allgemeine Form

Dạng tổng quát

Allgemeine Regel

Quy tắc chung

Chuyên ngành chất dẻo (nnt)

 Allgemeine Grundlagen:

 Nguyên tắc chung:

Từ điển triết học Kant

Logic học phổ biến/Siêu nghiệm [Đức: allgemeine/transzendentale Logik; Anh: Logic general/transcendental]

Xem thêm: Phân tích pháp, Thông giác, Chuẩn tắc (bộ), Phạm trù (các), Khái niệm, Biện chứng pháp, Yếu tố cơ bản (các), Mô thức, Suy luận, Phán đoán, Phương pháp luận, Bảng các phạm trù,

Mặc dù toàn bộ tác phẩm của Kant có thể được xem là một suy tưởng được mở rộng về logic học, nhưng ông chỉ chịu trách nhiệm về hai công trình minh nhiên dành cho chủ đề này.

Một trong các công trình đó, BSL, là một đóng góp đầu tay ngắn ngủi cho sự đổi mới một số sự quá đáng của phong cách hoa mỹ (baroque excesses) trong truyền thống Aristoteles. Công trình còn lại, quyển L, được Gottlob Benjamin Jäsche biên soạn từ bản sao được chú thích một cách nặng nề của Kant về cuốn sách giáo khoa của George Friedrich Meiter về logic học Auszug aus der Vernunftlehre (1752). Kant dùng cuốn L làm sách giáo khoa cho những bài giảng về logic học là bộ môn mà ông đã dành mất bốn thập niên kể từ lúc ông bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình trong những năm 1755-6 cho đến năm 1796 thì chấm dứt. Các bản ghi chép về các bài giảng này còn sót lại từ những năm đầu 1770 (“Logic học Blomberg”), đầu những năm 1780 (“Logic học Vienna” và “Logic học Heschel”), và đầu những năm 1790 (“Logic học Dohna-Wundlacken”), toàn bộ những ghi chép này được phiên dịch trong quyển 9 của Nxb. Guyer và Wood (tức cuốn L). Từ những nguồn này, ta có thể tái dựng một bối cảnh ngành học này cho nỗ lực tham vọng của Kant muốn xác định lại phạm vi của logic học trong triết học phê phán.

Các nội dung của từng quyển trong ba quyển phê phán được tổ chức thành một chuyên luận về logic học theo kiểu của Aristoteles đầu thời kỳ hiện đại, được chia thành “Học thuyết về các yếu tố cơ bản của nhận thức” (gồm “Phân tích pháp” và “Biện chứng pháp”) và “Học thuyết về phương pháp”. Được khép vào trong cấu trúc này, và nhất là trong PPLTTT, là một sự tổ chức riêng biệt khác về những nội dung của logic học được dẫn xuất từ truyền thống Descartes chống Aristoteles được minh họa bởi tác phẩm Art of Thinking [Nghệ thuật tư duy] hay “Logic học Port-Royal” (1662) của Arnauld. Trong truyền thống này, logic học không quan tâm nhiều lắm đến những hình thức suy luận vốn rất được ưa thích trong truyền thống Aristoteles, mà chỉ quan tâm đến việc rèn luyện sự phán đoán để phân biệt giữa đúng và sai, do đó đưa ra một bài tập luyện trong việc “tự-kỷ luật” (xem “Bài luận văn thứ nhất”). Với mục đích này, Nghệ thuật tư duy được tổ chức dựa theo “khái niệm”, “phán đoán”, “lập luận” và “sắp xếp trình tự”. Sự phân chia này thấm nhuần phân tích phê phán của Kant về phán đoán lý thuyết, phán đoán thực hành và phán đoán thẩm mỹ, và rõ ràng nhất trong PPLTTT, tác phẩm này chồng lên trên hệ hình Aristoteles và hệ hình Descartes trong một nỗ lực tạo ra một “Logic học siêu nghiệm”. “Cảm năng học siêu nghiệm” đóng vai trò là chức năng của việc cung cấp các chất liệu của tư duy được thực hiện bằng “khái niệm”; “Phân tích pháp siêu nghiệm” đưa ra sự sắp đặt ban đầu của tư duy được phân tích trong “phán đoán”; “Biện chứng pháp siêu nghiệm” làm nảy sinh những suy luận tam đoạn (ảo tưởng) được phân tích trong “lập luận”; và học thuyết về phương pháp đưa đến sự nối khớp có hệ thống về tri thức được bàn thảo trong việc “sắp đặt trình tự”.

Sự nhạy cảm ở Kant về những dị biệt giữa truyền thống logic học “Aristoteles” và truyền thống logic học “hiện đại” rõ ràng là xuyên suốt trong các bài viết và các bài giảng của ông về logic học. Ở mức độ khái quát nhất, BSL có thể được đọc như là nỗ lực thay thế sự nhấn mạnh của truyền thống vào những sự tinh vi của các hình thái suy luận bằng một chú trọng mới vào tự ý thức và phán đoán. Ta có thể theo dõi sự đấu tranh và sự thích ứng giữa hai truyền thống logic học được giới thiệu trong văn bản này trong các tác phẩm của Kant. Rõ ràng nhất là trong Lời tựa cho lần xuất bản thứ hai của PPLTTT, ở đó Kant quan sát thấy rằng logic học kể từ thời Aristoteles “không thể đi thêm một bước tiến nào cả, cơ hồ như đã hoàn chỉnh và hoàn tất hẳn rồi” (B 8). Ông không xét đến những nỗ lực của “các nhà hiện đại” mở rộng hon môn Logic học nhờ chất liệu được rút ra từ tâm lý học, siêu hình học và nhân học là có đóng góp gì lớn. Kant cho rằng Logic học “là môn khoa học trình bày cặn kẽ và chứng minh chặt chẽ những quy luật hình thức của mọi tư duy chứ không làm điều gì khác hon cả (bất kể tư duy ấy là tiên nghiệm hay thường nghiệm, có nguồn gốc hay đối tượng như thế nào)” (PPLTTT B 9). Ông còn nói thêm rằng trong môn Logic học, “giác tính không làm việc với cái gì khác hon là với chính mình và với hình thức của mình” (B 9) và xem bất cứ nỗ lực nào nhằm bổ sung nó chỉ đơn thuần là việc làm tổn hại đến tính nguyên vẹn của bộ môn.

Dù giới hạn môn Logic học vào sự trình bày những hình thức của giác tính và chối bỏ những bổ sung tâm lý học, siêu hình học và nhân học, sự tận tâm của Kant với dự án hiện đại về việc mở rộng môn Logic học là không bao giờ phải bàn cãi. Sự mở rộng được đề xuất của ông là tham vọng hơn nhiều so với đơn thuần là thêm vào những “tính chất” từ các khoa học riêng biệt và viết lại chi li môn “Logic học phổ biến” của truyền thống thành môn “Logic học siêu nghiệm” của thời hiện đại. Logic học phổ biến thuần túy “không làm việc với gì khác hơn là với các mô thức đơn thuần của tư duy” (PPLTTT A 54/B 78) và hoàn toàn là tiên nghiệm; nó được phân biệt với Logic học phổ biến ứng dụng là môn “hướng đến những quy luật của việc sử dụng giác tính dưới các điều kiện chủ quan thường nghiệm mà môn Tâm lý học dạy cho ta biết” (A 53/B 77). Cả hai được phân biệt với Logic học siêu nghiệm được trình bày trong PPLTTT, là môn “chỉ nghiên cứu các quy luật của giác tính và lý tính trong chừng mực môn học này quan hệ với những đối tượng một cách tiên nghiệm” (A 57/B 82).

Với sự phát triển của một môn Logic học siêu nghiệm hiện đại, Kant không có ý đồ bác bỏ những thành tựu của truyền thống logic học. Thay vào đó ông tiến hành phân tích phán đoán được rút ra từ truyền thống và sử dụng chúng như là một manh mối để phát hiện những thao tác của giác tính trong Logic học siêu nghiệm. Những khái niệm mà ông dùng để tạo thành bước chuyển từ Logic học truyền thống sang Logic học hiện đại là “tính thống nhất” và “sự tổng hợp”. Các phán đoán của Logic học phổ biến, được trừu tượng hóa khỏi mọi nội dung [của nhận thức], là “những chức năng mang lại tính thống nhất” (PPLTTT A 69/B 94); khi được chuyển thành Logic học siêu nghiệm, chúng biểu thị sự tổng hợp của một chủ thể thông giác tự khởi có trước mặt mình một “cái đa tạp của cảm năng tiên nghiệm” (A 77/B 102). Sự tổng hợp siêu nghiệm được rút ra từ những chức năng logic của Logic học phổ biến hình thành nên bảng các phạm trù hay “danh mục của tất cả các khái niệm thuần túy có tính nguyên thủy để làm công việc tổng hợp mà giác tính chứa đựng trong nó một cách tiên nghiệm” (A 80/B 106). Với những sự tổng hợp này, Kant muốn thích ứng với cả Logic học truyền thống được dựa trên những hình thức của phán đoán và suy luận lẫn với Logic học hiện đại bắt nguồn từ cái cogito [cái Tôi tư duy] của Descartes và dựa trên tự-ý thức và thông giác.

Một truyền thống lịch sử xa hon của Logic học cũng được biểu hiện trong công trình của Kant: đó là định nghĩa của Epicurus về Logic học như là một bộ chuẩn tắc hay “khoa học về việc sử dụng giác tính một cách thận trọng và đúng đắn” (L tr. 275). Bộ chuẩn tắc này được phân biệt với “bộ công cụ cho nghệ thuật tranh luận” của Aristoteles là bộ đã đưa ra những quy luật cho những suy luận đúng hay những suy luận có sức thuyết phục. Kant tự nhận là đi theo truyền thống Epicurus khi ông nhấn mạnh đến vai trò của Logic học như là một khoa học phân biệt các phán đoán. Thật thế, với PPLTTT, nó mang lại một bộ chuẩn tắc cho việc phân biệt những phán đoán và suy luận đúng với những phán đoán và suy luận sai, còn PPLTTH là giữa những châm ngôn của hành động tốt và những châm ngôn của hành động xấu, và sau cùng, PPNLPĐ là giữa các phán đoán về cái đẹp và những phán đoán về sự dễ chịu và cái thiện. Trong mỗi quyển phê phán, cả phân tích pháp phê phán lẫn biện chứng pháp phê phán đều là những bộ chuẩn tắc theo nghĩa này: phân tích pháp là một “bộ chuẩn tắc cho sự phân xử (về cái đúng đắn hình thức của nhận thức chúng ta)” (L tr. 531), trong khi biện chứng pháp chứa đựng “những dấu hiệu nhận biết và những quy luật phù hợp với những gì ta có thể thừa nhận rằng có cái gì đó không khớp với các tiêu chuẩn hình thức của chân lý, mặc dù nó có vẻ như khớp với các tiêu chuẩn này” (L tr. 532).

Trong Logic học siêu nghiệm, nỗ lực kết hợp Logic học truyền thống và Logic học hiện đại lại với nhau của Kant được triệt để hóa bởi những người kế tục ông như Fichte và Hegel. Họ không thấy nhất thiết phải hòa giải bảng các phán đoán truyền thống với sự tổng hợp của tự-ý thức, mà lập luận trực tiếp từ hoạt động tổng hợp của tự-ý thức cho cả hình thức lẫn nội dung của phán đoán. Sự quá đáng này trong việc phát triển Logic học của Kant rốt cuộc đã gây nên một phản ứng chống lại dự án của Logic học siêu nghiệm. Phản ứng này có nhiều hình thức ảnh hưởng khác nhau, từ các nghiên cứu tâm lý học và xã hội học về các hình thức của lập luận đến một Logic học về tính giá trị hiệu lực đặt trọng điểm vào sự biện minh hình thức cho các mệnh đề mà không kể đến nội dung hay quan hệ của chúng với thế giới.

Đinh Hồng Phúc dịch

Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Studienberatung,allgemeine

[DE] Studienberatung, allgemeine

[EN] general student advice/counselling

[FR] Conseils aux étudiants, général

[VI] Tư vấn sinh viên, chung

Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Gasgleichung,allgemeine

[EN] Gas equation, ideal

[VI] Phương trình về chất khí, tổng quát

Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)

Gasgleichung,allgemeine

[VI] Phương trình về chất khí, tổng quát

[EN] general gas equation

Metzler Lexikon Philosophie

Allgemein,das Allgemeine

(a) dient zur Kennzeichnung dessen, was einer Menge von einzelnen Dingen oder Eigenschaften gemeinsam ist. Das A. ist durch die Klasse von Dingen, Eigenschaften etc. gegeben; (b) ein empirisch a.es Merkmal kann durch Abstraktion aus einer Vielzahl konkreter Einzeldinge gewonnen werden (z.B. Gattungsbegriffe); (c) das A. kann als Generalisierung einer (bedeutsamen) Eigenschaft einer Menge von Einzeldingen verstanden werden (z.B. der Mensch als ein Wesen, das seine Natur bearbeiten muss, ein Wesen, das mit Vernunft ausgestattet ist); (d) hinsichtlich des Verhältnisses von Individuum und Gemeinschaft stellt das A. entweder das Gemeinsame der Einzelinteressen oder über die Einzelinteressen hinweg den a.en Zweck des Ganzen (z.B. der Gesellschaft oder des Staates) dar; (e) bezüglich des philosophischen Begriffspaars »Anschauung«-»Begriff« repräsentieren die (Verstandes-)Begriffe das A.; (f) in der Mathematik ist das A. eine Invarianzbeziehung, d.h. dasjenige, was beim Übergang von einem Element zu einem anderen konstant bleibt.

PP

Từ điển triết học HEGEL

Phổ quát/Phổ biến (cái) [Đức: das Allgemeine; Anh: (the) universal]

> Xem Phổ biến/Phổ quát, Đặc thù và Cá biệt/Đơn nhất (cái) Đức: das Allgemeine, das Besondere und das Einzelne; Anh: universal, particular and individual]

Phổ biến/Phổ quát, Đặc thù và Cá biệt/Đơn nhất (cái) [Đức: das Allgemeine, das Besondere und das Einzelne; Anh: universal, particular and individual]

Tiếng Đức có một từ bản địa và một từ gốc La-tinh dùng cho những chữ này:

1. (a) Allgemein (“tổng quát, phổ biến”) nghĩa đen là “chung (gemein) cho tất cả (all)”. Nó phát sinh ra danh từ (das/ein) Allgemeine (“(cái) phổ biến”) và (die) Allgemeinheit (“tính phổ biến”), (b) Vào thế kỷ XVI, universal, và vào thế kỷ XVIII, universell (qua chữ universel trong tiếng Pháp) được phái sinh từ chữ universalis trong tiếng La-tinh, chữ này lại có gốc từ universus (nghĩa đen là “biến (versus) thành một (unus)”, từ đó mới có nghĩa “phổ quát, bao quát, toàn bộ”, V.V.).

Thuật ngữ Hegel thường dùng để biểu thị nghĩa “phổ biến” hay “universal” trong tiếng Anh là allgemein. Chỉ thỉnh thoảng ông mới dùng universell, nhất là về PHÁN ĐOÁN phổ quát trong KHLG. (Ông dùng Universum theo nghĩa “vũ trụ, TOÀN THỂ, (toàn) thế giới”).

2. (a) Besonder có cùng gốc với chữ “(a)sunder” trong tiếng Anh, và nguyên nghĩa là “được tách ra, được phân ranh, đặc biệt”. Nó sinh ra danh từ das Besondere (“cái đặc thù”), (die) Besonderheit (“tính đặc thù”), và (die) Besonderung (làm cho trở thành đặc thù, đặc thù hóa, chuyên biệt hóa). Mối liên kết với “sunder” (sondern) được bảo lưu trong cách sử dụng của Hegel về từ này. (b) Partikular và Partikularitdt có gốc từ chữ La-tinh pars (bộ phận, phần, phân chia).

Hegel thường dùng besonder hon partikular, nhưng ông dùng chữ sau cho, chẳng hạn, phán đoán đặc thù và cho cái đặc thù, chẳng hạn: những mối quan tâm đặc thù, đặc biệt.

3. (a) Einzeln (“cá biệt, đơn nhất, cá thể, cô lập”, v.v.) có gốc từ chữ ein (“một”). Chữ này sinh ra danh từ das Einzelne (“cái cá thể (sự vật)”), der Einzelne (“cá nhân (người)”), (die) Einzelheit (“tính cá biệt”, v.v. nhưng cũng là “điểm đặc thù, chi tiết”) và vereinzeln, Vereinzelung (cô lập, cá thể hóa/cá nhân hóa”, “sự cô lập, sự cá biệt hóa/cá nhân hóa/cá thể hóa”), (b) Chữ La-tinh individuum (“cái không thể phân chia”, dịch từ chữ atomon trong tiếng Hy Lạp). Vào thế kỷ XVI, chữ này sinh ra chữ (das) Individuum (“(cái) cá thê”) và individual, và vào thế kỷ XVIII, qua tiếng Pháp, sinh ra chữ individuell và Individualität. Những chữ này gợi lên “tính cá nhân của con người” và “chủ nghĩa cá nhân” mạnh hơn so với chữ einzeln, v.v. Nhưng lối diễn đạt thông dụng đối với chữ “cá nhân” theo nghĩa “nhân thân” (Person) là der Einzelne chứ không phải das Individuum.

Hegel thường dùng einzeln, V.V., để tương phản với allgemein, V.V., và besonder, v.v. Nhưng ông hay dùng Individuum và Individualität, nhất là cho cá nhân con người và tính cá nhân, chẳng hạn “cá nhân mang ý nghĩa LỊCH sử-thế giới” là das Individuum, chứ không phải der Einzelne. Đôi khi, ông dùng chữ singular gốc La-tinh cho phán đoán “cá biệt” hay “cá thê”.

Trong Lô-gíc học thời Hegel, các thuật ngữ này có hai cách dùng chính:

1. Sự phân biệt giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù” tương ứng phần nào với sự phân biệt giữa giống (hay “cái có thể quy định”) và loài (hay “cái bị quy định”). Một cái phổ biến (ví dụ: khái niệm, v.v.) là khái niệm áp dụng cho, hay một đặc điểm cố hữu trong, mọi thực thể, hay tất cả mọi thực thể thuộc một loại hình nào đó: ví dụ “có màu”. Còn [khái niệm] đặc thù thì chỉ áp dụng cho một số thực thể nào đấy: ví dụ “đỏ”. (“Cái phổ biến” và “cái đặc thù” ở đây là các thuật ngữ có tính tương đối: ở điểm nhìn này thì là cái đặc thù, tức là sự đặc thù hóa của cái phổ biến, ở điểm nhìn kia thì lại là cái phổ biến, tức là một thuật ngữ tổng quát có thể được đặc thù hóa thành những cái đặc thù). Một cá nhân là một thực thể đơn nhất: ví dụ Socrates.

2. Các thuật ngữ này cũng áp dụng cho các kiểu phán đoán: phán đoán phổ biến liên quan đến tất cả các thực thể thuộc một kiểu nào đó: ví dụ: “Mọi người đều thông thái”. (Hegel thường gọi loại hình của tính phổ biến này là “tính tất cả”, Allheit). Phán đoán đặc thù liên quan đến một số thực thể thuộc một kiểu nào đó: ví dụ “Một số người là thông thái”. Phán đoán cá biệt liên quan đến một cá nhân/cá thể: ví dụ “Socrates là thông thái”. Phán đoán cá biệt được Kant (PPLTTT, A71, B 96) và các nhà Lô-gíc học khác coi là giống với phán đoán phổ biến, ở chỗ thuộc từ áp dụng cho toàn bộ chủ từ (ví dụ Socrates), chứ không phải cho một bộ phận của chủ từ ấy, như trong trường hợp của phán đoán đặc thù. (Điều này, cùng với sự kiện là tính cá biệt biểu thị sự nhất thể, tương phản với “việc tách ra” của tính đặc thù, phần nào giải thích quan niệm của Hegel khi ông cho rằng tính cá biệt là sự khôi phục tính phổ biến ở cấp độ cao hơn).

Trong Lô-gíc học truyền thống, không có cái gì có thể vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến cả. Nhưng trong cách dùng ít tính hình thức hơn thì một cái cá biệt có thể được coi là phổ biến: Krug lập luận rằng một DÂN TỘC (Volk), tương phản với các dân tộc khác, là cái gì đó đặc thù (etwas Besonderes), nhưng khi được coi là một cái toàn bộ và tương phản với những cá nhân mà nó bao hàm thì nó là phổ biến. Hegel dùng chữ allgemein theo cách tương tự. Trong HTHTT, I, cái “ở đây” và cái “bây giờ” là phổ biến, không chỉ vì các thuật ngữ này áp dụng cho bất cứ một không gian và thời gian nào, mà vì bất cứ phạm vi nào của không gian được gọi là “ở đây” đều chứa đựng những phạm vi nhỏ hơn, mà mỗi một phạm vi nhỏ hơn ấy đều có thể được gọi là “ở đây”, và bất cứ một quãng thời gian nào được gọi là “bây giờ” đều chứa những quãng thời gian ngắn hơn, vốn cũng là “những cái bây giờ”. Cái Tôi là phổ biến không chỉ vì ai ai đều là một cái Tôi (BKTI, §20), mà còn vì nó là một “chỗ chứa” mọi quan niệm của ta, v.v. (BKTI, §24A.l). Vì thế, “cái phổ biến” gần với cái “TOÀN BỘ”, “bao hàm” (tất cả), hay “toàn diện”. Một lý do khác cho tính phổ biến của cái Tôi, đó là nó “trống rỗng” hay vô quy định (không được quy định). Vì thế, Hegel cũng liên kết tính phổ biến với tính đơn giản, tính không được quy định hay không có đặc điểm riêng. Ông coi tính phổ biến (như KHÁI NIỆM) là sự phát triển từ tính đơn giản không được quy định thành tính toàn diện phong phú trong đó nó trùng khít với tính cá biệt. (So sánh: universaler Mensch, “con người phổ quát” (hay con người “Phục hưng”), tức con người của những tài năng và những mối quan tâm toàn diện, nhưng cũng là của tính cá biệt nổi bật).

Những cái cá biệt, về mặt Lô-gíc học, nhận thức luận và/hay bản thể học, thường được coi là thấp hơn những cái phổ biến, nhất là nơi những người ủng hộ quan niệm của Plato rằng những MÔ THỨC, Ý NIỆM hay cái phổ biến có trước những cái cá biệt. Những cái cá biệt có được tư cách đáng kính hơn về mặt lô-gíc từ việc định đề hóa đối với các mô thức cá biệt, cũng như các mô thức phổ biến (Plotinus), đối với các bản chất cá biệt (haecceitas, “cái đây này”, của Duns Scotus), và đối với khái niệm về mỗi cái cá thể khác biệt với khái niệm về bất kỳ một cái cá biệt nào khác (Leibniz). Hegel bác bỏ những nỗ lực gán cho cái cá biệt một vị thế ngang bằng và “phối hợp” với vị thế của cái phổ biến nói trên. Đối với ông, TƯ TƯỞNG và NGÔN NGỮ gắn liền với những cái phổ biến, chứ không thể quy chiếu đến những cái cá biệt độc nhất, vì các thuật ngữ như “cái Tôi” “này” và “cái cá biệt này” đều là những thuật ngữ phổ biến (BKT, I, §20). Những cái cá biệt nhận được vị thế của chúng từ tính phổ biến được bao hàm trong chúng. Giống với Spinoza, ông không coi những cái cá biệt là các tùy thể đon thuần của BẢN THỂ.

Phong trào Khai Minh coi các cá nhân con người là thuần lý một cách đồng dạng, những sự dị biệt cá nhân của họ chỉ là thứ yếu. Nhưng Herder và các nhà lãng mạn đã nhấn mạnh đến Individualität độc đáo của, chẳng hạn những con người cá biệt và các công trình NGHỆ THUẬT. Hegel thừa nhận những sự dị biệt đặc thù giữa con người, nhưng ông lại đặt chúng phụ thuộc vào những gì mà con người có chung với nhau. Đối với quan năng cao nhất là LÝ TÍNH, con người về bản chất là không khác nhau: “cái hợp lý tính là đại lộ mà ai ai cũng đi chứ không dành riêng cho kẻ nào cả” (THPQ, §15A). Trong xã hội, lĩnh vực của tính đặc thù, tức XÃ HỘI DÂN Sự, phụ thuộc vào tính cá biệt của NHÀ NƯỚC, trong đó các nhu cầu và các lợi ích đặc thù được tái hòa nhập và được vượt bỏ trong một tính phổ biến toàn diện có tính phân thù hon tính phổ biến đon giản của GIA ĐÌNH.

Tính phổ biến (Allgemeinheit/Anh: universality), tính đặc thù (Besonderheit/Anh: particularity) và tính cá biệt (Einzehnheit/singularity) là ba MÔ-MEN của khái niệm. Hegel bác bỏ quan niệm coi các cái phổ biến, đặc thù và cá biệt, về mặt Lô-gíc học, bản thể học hay nhận thức luận, là phân biệt với nhau một cách rạch ròi. Cái phổ biến thì cụ THỂ chứ không TRỪU TƯỢNG, và PHÁT TRIỂN thành, nhưng bảo lưu chính mình trong cái đặc thù và cái cá biệt. Hegel biện luận cho ý tưởng này ở nhiều cấp độ khác nhau:

1. Khái niệm về tính phổ biến phát triển thành khái niệm về tính đặc thù và khái niệm về tính cá biệt (chẳng hạn BKTI, §163-5). Chẳng hạn, nó chỉ là phổ biến nhờ vào việc tưong phản với chúng. Tính phổ biến đặc thù hóa chính mình thành tính phổ biến, tính đặc thù, và tính cá biệt: tính phổ biến vì thế vừa là giống phổ biến vừa là một loài đặc thù của giống này, ngang hàng với tính đặc thù và tính cá biệt. (Thao tác này có thể được lặp lại: cái phổ biến đặc thù có thể lại đặc thù hóa chính mình thành các phân loài nhỏ hơn nữa của tính phổ biến, tính đặc thù và tính cá biệt). Ông thường khai thác ý tưởng cho rằng một giống phổ biến có thể là một trong các loài của chính nó: nó giải thích phần nào cách sử dụng từ ngữ của ông như “TỒN TẠI” theo nghĩa rộng hơn và hẹp hơn. Nó gần với ý tưởng cho rằng tư tưởng “bao trùm” hay “vượt quá” (“übergreift”/Anh: “overreaches”' ) cái khác với tư tưởng.

2. Trong Lô-gíc học nói chung, tư tưởng phổ biến đặc thù hóa chính mình thành những tư tưởng đặc thù, và cuối cùng quay trở lại với tính thống nhất hay nhất thể của Ý NIỆM tuyệt đối.

3. Tính phổ biến “bao trùm” hay “vượt quá” những cái đặc thù và những cái cá biệt. Những cái cá biệt chỉ có thể được mô tả và đề cập đến bằng các thuật ngữ phổ biến, kể cả “cái cá biệt (này)”. Những cái phổ biến được hiện thân trong những cái đặc thù và những cái cá biệt, cấu thành BẢN CHẤT của chúng.

4. Vì những cái phổ biến được hiện thân nơi các sự vật, nên các sự vật bao hàm sự tự-dị biệt hóa của một cái phổ biến thành những cái đặc thù và rồi cả sự hợp nhất lại của tính cá biệt. Điều này có thể hoặc không phải là một diễn trình thời gian: ví dụ: một hạt giống phổ biến, vô quy định đặc thù hóa chính mình thành một cái cây được dị biệt hóa, rồi rút vào trong tính cá biệt bằng cách tạo ra hạt giống mới; nhưng tại bất cứ thời điểm nào, một con vật là một sự sống phổ biến bất định tự dị biệt hóa chính mình thành những cơ quan đặc thù, nhưng vẫn giữ chúng được hợp nhất trong một cá thể đơn nhất.

Xuyên suốt các công trình của Hegel, cả tư tưởng lẫn sự vật đều được coi là những sự minh họa cho mô hình PHÁT TRIỂN theo NHỊP BA là: phổ biến-đặc thù-cá biệt: cái Tôi phổ biến đặc thù hóa chính mình thành ý thức về các ĐỐI TƯỢNG, và tiếp đó khôi phục tính cá biệt của nó trong Tự-Ý THỨC; tính phổ biến của ý niệm lô-gíc đặc thù hóa chính mình thành Tự NHIÊN và được cá biệt hóa trong TINH THẦN. Cái cá biệt giữ vai trò là kết quả [của tiến trình đặc thù hóa] vừa mang tính phổ biến vừa mang tính cá biệt. Nhưng nó là phổ biến không phải theo nghĩa “đơn giản, vô quy định”, mà theo nghĩa “bao hàm toàn bộ, toàn diện”: chẳng hạn, các nền triết học đặc thù khác nhau ra đời từ tính đơn giản nguyên thủy hay tính phổ biến của tư tưởng được tiếp thu, hay được vượt bỏ trong TRIẾT HỌC Hegel, vì thế nền triết học này là phổ biến ở một cấp độ cao hơn (BKTI, §13). Xem thêm: PHÂN LOẠI, ĐỊNH NGHĨA, PHỦ ĐỊNH.

Đinh Hồng Phúc dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Allgemeine

sub n cái chung

Lexikon xây dựng Anh-Đức

allgemeine

blanket

allgemeine