Nguyên mẫu [Latinh: archetypon; Đức: Urbild; Anh: archetype]
Xem thêm: Niềm tin, Ý niệm, Ý thể/Lý tưởng, Mô phỏng (sự),
Đối với Kant, nguyên mẫu so với phó mẫu (ectype) cũng giống như bản gốc so với bản sao (copy), hay giống như giác tính toàn thể (holistic) của một intellectus archetypus [trí tuệ nguyên mẫu] so với “giác tính suy lý, là thứ giác tính cần đến những hình ảnh” (intellectus ectypus) (PPNLPĐ §77). Làm cơ sở cho những phân biệt này là cuộc luận chiến phê phán với thuyết Platon. Trong PPLTTT, Kant phê phán “sự diễn dịch thần bí” của Platon về “các ý niệm” đã bị hữu thể hóa bằng cách biến chúng thành “những nguyên mẫu của bản thân những sự vật” (PPLTT A 313/B 370). Kant khẳng định rằng Platon với “sức bật tư tưởng đi từ cách nhìn sao chép về cái vật lý của trật tự vũ trụ vươn lên cách nhìn về sự nối kết có tính cách kiến trúc của vạn vật theo các mục đích tức là theo các ý niệm” (PPLTTT A 318/B 375) biến “những nguyên tắc điều hành” cho sự hoàn chỉnh có tính hệ thống của nhận thức thành những nguyên tắc cấu tạo nên nguồn gốc của các sự vật. Kant phê phán triết học thực hành của Platon theo lối tương tự, tức bằng cách xem ý niệm về cái thiện có thể được sử dụng như là một nguyên tắc điều hành cho “bất kì phán đoán nào về giá trị luân lý”, nhưng bản thân nó không phải là một nguyên mẫu. Tuy thế, nguyên tắc này có thể được sử dụng như một nguyên mẫu khi nó giữ vai trò như là một lý tưởng để mô phỏng. Trong PPLTTT, Kant mô tả một nhà hiền triết của phái Khắc kỷ là một nguyên mẫu như thế, tức nguyên mẫu dùng “cho việc xác định trọn vẹn hình tượng mô phỏng [bản sao] và ta không có chuẩn mực nào khác cho những hành vi của ta hơn là sự ứng xử của bậc hiền triết thánh thiện này ở trong ta, dựa vào đó, ta tự so sánh, đánh giá [những hành vi của mình] và cũng qua đó tự hoàn thiện mình, dù biết rằng không bao giờ có thể đạt đến nổi” (PPLTTT A 569/B 597). Trong TG, nguyên mẫu của phái Khắc kỷ được thay thế bằng Đức Kitô như là “nguyên mẫu của con người rất đẹp lòng Thượng đê” (tr. 119, tr. 109), mà bổn phận của chúng ta là mô phỏng nguyên mẫu đó. Sự hiểu biết này về nguyên mẫu như là lý tưởng để mô phỏng cũng xuất hiện trong phần mỹ học của PPNLPĐ của Kant. Ở đó, ông sử dụng sự đối lập giữa nguyên mẫu và phó mẫu như là một phưong tiện để phân biệt giữa điêu khắc và hội họa: “Co sở nền tảng” của cả hai là ý niệm thẩm mỹ với tư cách là một “nguyên mẫu”, còn những phưong cách diễn đạt của nó (hay phó mẫu) thì ở trong “quảng tính mang tính Cổ thể” của điêu khắc hoặc trong “vẻ ngoài của nó khi được phóng chiếu trên một mặt phẳng” làm nên đặc trưng của hội họa (PPNLPĐ § 51).
Cù Ngọc Phương dịch
Ý thể/Lý tưởng [Đức: Urbild; Latinh: Prototyp; Anh: ideal]
Xem thêm: Nguyên mẫu, Xác định (sự), Ví dụ điển hình, Thượng đế, Ý niệm, Mô phỏng (sự),
Lý tưởng được định nghĩa là “biểu tượng về một cá thể như là hữu thể tương ứng trọn vẹn với một ý niệm” (PPNLPĐ §17). Trong PPLTTT, Kant chỉ rõ ý thể là “ý niệm không đơn thuần in concreto [cụ thể] mà là in individuo [cá vị], tức là như một sự vật cá biệt chỉ có thể được hoặc thậm chí đã được xác định bởi ý niệm” (PPLTTT A 568/B 596). Mặc dù là một hữu thể cá vị tự-xác định thì ý thể vẫn giữ vai trò như một nguyên mẫu cho việc xác định trọn vẹn các bản sao của nó. Trong PPLTTT, Kant đưa ra những ví dụ điển hình về ý thể như: nhà hiền triết phái khắc kỷ tồn tại trong “sự tương xứng hoàn toàn với ý niệm về sự minh triết” (A 569/B 597), Thượng đế hay ý thể siêu nghiệm. Cả hai ví dụ điển hình này đều đóng vai trò như những nguyên mẫu cho sự mô phỏng nhưng theo những cách khác nhau. Nhà hiền triết phái khắc kỷ như một ví dụ điển hình, và Thượng đế như nguồn gốc của mọi hữu thể. Thượng đế với tư cách là ens realissimum (Hữu thể có tất cả tính thực tại) là một Hữu thể cá biệt mà sự tồn tại của Ngài là tương ứng với ý niệm về Hữu thể của mọi hữu thể. Với Kant, Thượng đế là Ý thể đích thực duy nhất. Ý thể duy nhất này thỏa mãn điều kiện của hữu thể “được xác định trọn vẹn bởi chính nó và được nhận thức như là biểu tượng về một cá thể” (PPLTTT A 577/B 604). Trong khi phân tích về “Ý thể của lý tính thuần túy” thuộc phần “Biện chứng pháp siêu nghiệm”, Kant bác lại mọi nỗ lực chứng minh sự tồn tại của Thượng đế như một ý thể siêu nghiệm; Thượng đế không phải là một đối tượng khả tri, mà phải được suy tưởng như là nhu cầu của lý tính nhằm thống nhất nhận thức, hay được suy tưởng như là Hữu thể mà mọi hữu thể rốt cuộc có thể được quy chiếu vào. về sau, trong “Bộ chuẩn tắc của lý tính thuần túy”, Kant cũng bàn đến các ý thể của sự thiện “tối cao” và “nguyên thủy” của lý tính thực hành, hay lý tính tối cao mang hạnh phúc và luân lý lại với nhau. Hai phương diện của ý thể (hay lý tưởng), như là ví dụ điển hình và như là nguồn suối, giữ vai trò quan trọng trong thảo luận về sản phẩm nghệ thuật trong quyển PPNLPĐ (xem §§17 và 60). Lý tưởng của cái đẹp là ở trong các sản phẩm điển hình của tài năng thiên bẩm; các sản phẩm của tài năng thiên bẩm không tuân theo các quy tắc, thế nhưng lại là những nguyên mẫu điển hình và tự đầy đủ.
Cù Ngọc Phương dịch