TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

quy luật

quy luật

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ điển phân tích kinh tế
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển tổng quát Anh-Việt
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển luyện kim - Anh - Việt
Từ điển triết học HEGEL

luật

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học Kant

định luật

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

quy tắc

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

định lý

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

điều lệ

 
Từ điển tổng quát Anh-Việt

Tuân thủ

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thông thường

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

quy pháp

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

dòng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

quy phạm

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

q.tắc

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

luật dòng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thước

 
Từ điển toán học Anh-Việt

nguyên lý

 
Từ điển toán học Anh-Việt

công thức

 
Từ điển toán học Anh-Việt

quy luật/luật

 
Từ điển triết học Kant

quy trình

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

quy luật/luật và quy tắc

 
Từ điển triết học HEGEL

luật và quy tắc

 
Từ điển triết học HEGEL
quy luật .

Quy luật .

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Anh

quy luật

law

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ điển phân tích kinh tế
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

Rule

 
Từ điển tổng quát Anh-Việt
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển toán học Anh-Việt

 law

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

observance

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

regular

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

act

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

law and rule

 
Từ điển triết học HEGEL
quy luật .

Precept

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Đức

quy luật

Gesetz

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học Kant

Gesetze

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Gesetzmäßigkeit

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

gesetz und regel

 
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển triết học HEGEL

Quy luật/Luật và Quy tắc [Đức: Gesetz und Regel; Anh: law and rule]

Chữ law tiếng Anh có thể dịch sang tiếng Đức thành một số từ, chẳng hạn: Recht (“quyền, pháp quyền”, (nói chung, chứ không phải theo nghĩa một luật đặc thù)), Bestimmung (en) (“(những) sự QUY ĐỊNH, các quy tắc, các điều khoản pháp lý”). Nhưng chữ tiếng Đức thường được dùng để dịch “Zữw” là Gesetz, từ động từ setzen (“THIẾT ĐỊNH, đặt định”, V.V.), nghĩa là cái gì đó được đặt định. Giống như “law”, Gesetz vừa chỉ đến các luật của một cộng đồng vừa chỉ đến các quy luật của Tự NHIÊN. (Chữ Đức biểu thị “luật tự nhiên” là Naturgesetz hay Gesetz der Natur, phân biệt với Gesetz des Rechts, nghĩa là “luật của đất nước”). “Luật tự nhiên”, theo nghĩa là một bộ luật đạo đức hay xã hội vốn mặc nhiên trong bản tính của con người hay trong vũ trụ là Naturrecht, phân biệt với positive Recht [luật thực định]. Tính nước đôi này đã có từ lâu: Heraclitus cho rằng vũ trụ được chi phối bởi luật thần thánh (nomos), theo một cách có thể ví với luật của con người vốn chi phối các xã hội loài người, và đây là một học thuyết trung tâm của các nhà Khắc kỷ. Cụm từ “luật tự nhiên” (leges naturae) xuất hiện nơi Lucretius thì không có những liên tưởng thần học hay đạo đức học theo nghĩa đen.

Cũng có các quy luật luân lý hay đạo đức, quy định các nghĩa vụ của ta dù chúng có được thể hiện trong các luật của đất nước hay không. Kant phân biệt các luật này với luật bên ngoài (tức, luật của đất nước), một số trong những luật ấy được cho là ràng buộc một cách tiên nghiệm, độc lập với pháp định hiện thực (tức là các luật bên ngoài, nhưng tự nhiên (natiirlische)), trong khi những luật khác chỉ mang tính ràng buộc nhờ vào sự lập pháp bên ngoài (các luật thực định [positive]). Trong thời đại của Kant, thuật ngữ Denkgesetz(e) (“(các) luật của TƯ DUY”) được áp dụng vào các luật hay các nguyên tắc về sự ĐỒNG NHÂT, sự (không) MÂU THUÂN, sự loại trừ cái thứ ba và đôi khi cả cho nguyên tắc lý do hay Cơ SỞ đầy đủ. Hegel bác bỏ danh hiệu này, vì ông tin rằng việc vi phạm các luật này trong suy tư là vừa dễ dàng vừa chính đáng.

Một Regel (“quy tắc”, theo nghĩa lý thuyết lẫn thực hành) khác với một quy luật ở chỗ nó thừa nhận những ngoại lệ (“là một quy tắc...”, “các quy tắc xã giao”, V.V.). Hegel chủ yếu sử dụng chữ Regel khi nói về HẠN ĐỘ (Mass), ở đó Regel là một chuẩn mực hay tiêu chuẩn (Masstab nghĩa đen là “thước đo”), một đơn vị đo lường cố định được thể hiện nơi một thực thể vật chất (chẳng hạn, một cái thước), dùng để xác định kích thước của các thực thể khác. Trong MH, Hegel phân biệt giữa Regelmässigkeit (“tính hợp-quy tắc”/Anh: “regularity”) với Gesetzmässigkeit (“tính hợp- quy luật”/Anh: “lawfulness”). Quy tắc chứa đựng tính chất đồng dạng vốn chưa được dị biệt hóa, vì thế tính hợp quy tắc, có quan hệ gần gũi với tính đối xứng, có mặt trong, chẳng hạn, một chuỗi các đường thẳng song song có độ dài bằng nhau, một tinh thể và một vòng tròn. Quy luật cốt yếu ở sự nối kết tất yếu giữa các đặc điểm riêng biệt; vì thế, tính hợp-quy luật có mặt trong các chuyển động không đều của các hành tinh, hình ô van không đều và đường “sóng lượn” được Hogarth ca ngợi trong cuốn Analysis of Beauty [Phân tích cái đẹp] (1753). Tính hợp-quy tắc có một vị trí trong kiến trúc và âm nhạc, nhưng lại không được hoan nghênh trong điêu khắc và nói chung là thấp kém hơn tính hợp-quy luật trên phương diện mỹ học nói chung.

Hegel thường đồng hóa hai kiểu quy luật chính này, khi ông gọi các quy luật của tự nhiên là một Reich (“vương quốc, lĩnh vực”) của các quy luật (tương phản với lĩnh vực HIỆN TƯỢNG) và du nhập sự TRỪNG PHẠT vào một thảo luận về các luật của tự nhiên (HTHTT, III; BKT §422A). Nhưng ông phân biệt chúng trong HTHTT, Lời Tựa. A.: Các định luật tự nhiên không phải là những mệnh đề do ta tạo ra, nhưng là những sự kiện khách quan, mà ta có thể phát hiện và không thể vi phạm. Đối với cá nhân người công dân, các luật của đất nước cũng là những sự kiện khách quan, mà họ cần phải biết, và giống như nhà khoa học tìm hiểu các định luật tự nhiên, việc tìm hiểu [pháp] luật thực định sẽ mang lại một nghiên cứu khách quan về chúng. Nhưng các luật của đất nước là do con người thiết định; nên không phải là tuyệt đối, vì chúng thay đổi từ xã hội này sang xã hội khác. Do đó có thể có một vết nứt giữa các luật này và lương tâm cá nhân của công dân. THPQ nỗ lực hòa giải (versöhnen) ta với tính hợp-lý tính của các đạo luật, trong khi nhà khoa học tự nhiên không thể và cũng không cần hòa giải ta với các quy luật tự nhiên. Trong BKTIII §529 và THPQ §211, có bàn về sự khác biệt giữa việc các vì sao và loài vật không biết (wissen) đến các quy luật chi phối hành vi cư xử của chúng, trong khi con người thì biết. (Hegel không muốn nói rằng sự vật thực sự tuân theo các quy luật của tự nhiên, trong khi con người PHẢI tuân theo các luật của đất nước: một quy luật không được tuân theo là một quy luật chết hay vô hiệu lực).

Những quy chiếu đến cả hai loại luật chính này xuất hiện xuyên suốt các tác phẩm của Hegel. Quan niệm của ông về chúng là như sau:

1. Trong THTH, ông thường so sánh các quy luật, cả quy luật đạo đức lẫn quy luật chính trị, một cách không mấy thiện cảm so với với tình yêu, nhưng ông đi đến chỗ quan niệm rằng không xã hội bền vững nào mà lại không cần luật pháp. Trong các giai đoạn đầu của LỊCH sử, các luật của nhà nước không được phân biệt với các luật của thần linh hay tôn giáo: HTHTT, VI. A, xem xét sự xung đột giữa luật người và luật thần linh trong bi kịch và xã hội Hy Lạp.

THPQ §211 và tiếp và BKTIII §529 và tiếp xem xét luật pháp trong xã hội hiện đại. Việc quản trị luật được dành cho XÃ HỘI DÂN sự chứ không cho NHÀ NƯỚC: nhà nước hay QUYỂN Lực lập pháp của nó ban hành các luật, nhưng mọi sự tương tác qua lại của con người trên diện rộng đòi hỏi một bộ khung luật pháp, chứ không đơn giản là hoạt động bên trong các ranh giới của nhà nước-quốc gia. Các luật phải là PHỔ BIẾN về hình thức, được diễn đạt rõ ràng và xác định, được các công dân biết đến, được đặt định bằng quyền uy, được quản trị công bằng và được thực thi có hiệu lực, cùng với sự trừng phạt khi chúng bị vi phạm. Luật pháp phải tinh lọc, làm rõ và phát triển các TẬP TỤC đã có từ trước; các luật hoàn toàn vi phạm các tập tục sẽ không thể thực thi được. Vì các luật là phổ biến, nên việc các công dân là bình đẳng trước pháp luật theo nghĩa rằng các luật áp dụng không thiên vị cho mọi công dân là một “sự lặp thừa hay trùng phức” (BKT III, §539). Nhưng “xét trên phượng diện cụ thể của cái cụ thể, các công dân... là bình đẳng trước luật chỉ trong những phương diện mà trong đó họ vốn đã bình đẳng bên ngoài pháp luật”. Trong chừng mực các công dân là khác nhau một cách đáng kể, thì luật quy định cho họ những nghĩa vụ và quyền hạn khác nhau.

Nội dung của các luật có thể là phi lý tính. Nhưng ngay cả khi các luật không phi lý tính, thì việc quyết định các điểm chi tiết theo một cách thức tùy tiện thường là cần thiết: sự cấm đoán và trừng phạt tội trộm cắp là có thể biện minh một cách hợp lý tính, nhưng, chẳng hạn, một hình phạt tù giam mười năm, chứ không phải chín năm hay mười một năm, thì không biện minh được một cách hợp lý tính. Vì thế nói rằng một luật là “thực định” có thể có ba nghĩa: (a) luật vi phạm LÝ TÍNH và vì thế là một luật tồi; (b) một cách hợp lý tính và có thể biện minh được, nhưng luật tạo nên sự cai trị không thể biện minh một cách hợp lý tính; hay (c) dù luật có thể biện minh được một cách hợp lý tính và tạo ra được một sự cai trị có thể biện minh một cách hợp lý tính, nhưng vẫn là một luật được thiết định bằng quyền uy. Tuy vậy, các luật không đơn giản là sự áp đặt bên ngoài: sự tuân thủ xét như sự tuân thủ là một giai đoạn bản chất trong sự hình thành tính cách của một con người, và tuân thủ luật có nghĩa là tuân thủ những gì là tính lý tính và Ý CHÍ bản chất của chính ta thể hiện ra, nhờ vào tính phổ biến của luật. Do đó, Hegel ưa thích một trật tự pháp lý hơn một trật tự đơn thuần của tập tục, không đơn giản vì nó điều hướng hành vi cư xử của ta hiệu quả hơn, nhưng vì nó nâng chúng ta lên một cấp độ Tự Ý THỨC cao hơn.

2. Trong HTHTT, III, sự xem xét về Lực (Kraft) dẫn đến sự du nhập các định luật, vì BẢN CHÂT bên trong phải được dị biệt hóa đầy đủ để tính đến sự đa dạng của hiện tượng. Một định luật nối kết những đặc điểm riêng biệt của hiện tượng, chẳng hạn [tính] khoảng cách đã đi, và thời gian diễn ra, bằng một vật thể rổi. Nhưng khác với hiện tượng, các định luật không thay đổi: vương quốc của các định luật là một “hình ảnh tĩnh tại” [Bild, hay bản sao, Abbild) của hiện tượng khả biến (Erscheinung)”. Nhưng điều này không có nghĩa là các định luật là ít khách quan hơn các lực: các định luật là “những sự quy định của GIÁC TÍNH vốn cố hữu bên trong bản thân thế giới” (BKTIII, §422A). Thoạt đầu Hegel xem xét các luật vận động và nhận thấy hai vấn đề chính trong chúng: (a) Vì một định luật chống đỡ việc thống nhất các hiện tượng, nên các định luật không đơn giản là khác với nhau, mà xét đến cùng là có thể quy giản vào một định luật duy nhất. Nhưng các nỗ lực quy giản số lượng các định luật có nguy cơ (như nơi Newton) dẫn tới một trùng phức hay lặp thừa trống rỗng, ở đó mọi vật đều phụ thuộc vào các điều kiện có trước mà luật áp dụng vào. (b) Các định luật không hoàn toàn ĐẶT cơ SỞ cho các hiện tượng: chúng chỉ giải thích những gì xảy ra nếu các điều kiện nào đó được đáp ứng, chứ không giải thích việc đáp ứng trọn vẹn các điều kiện ấy. Sự phản tư của ông về những vấn đề này dẫn đến việc xem xét các luật chứa những cực ĐỐI LẬP, chẳng hạn như các định luật về từ tính và điện. Điều này gợi ra ý tưởng rằng vương quốc của các định luật là một sự đảo ngược hay hình ảnh-phản chiếu của lĩnh vực hiện tượng.

Trong HTHTT, V. A, Hegel chuyển sang “LÝ TÍNH quan sát (beobachtende), và xem xét các luật liên quan đến sự SỐNG hữu cơ, cũng như các quy luật lô-gíc và tâm lý học, đặc biệt là các quy luật được cho là đối ứng giữa các đặc điểm tâm lý của con người với các đặc điểm diện mạo của họ (“nhân tướng học”) hay với hình dáng của hộp sọ của họ (Schädellehre, “tướng sọ học”). Hegel nghi ngờ khả thể của các luật như thế: sinh thể hữu cơ quá thống nhất và tự quy định đến mức không thể có các quy luật có ý nghĩa nào nối kết các trạng thái của chúng với các trạng thái môi trường của chúng. TINH THẨN cá nhân cũng thống nhất tương tự và không thể chia nhỏ thành những đặc điểm riêng hay những quan năng, mỗi đặc điểm hay quan năng tương ứng với một đặc điểm thể chất nào đó. Thậm chí, con người còn ít phục tùng các NGUYÊN NHÂN bên ngoài so với cây cối và thú vật. Thêm vào đó, một khi con người biết về một luật chi phối tư tưởng hay hành vi cư xử của mình, người ấy có thể trốn tránh hay lợi dụng sự vận hành của nó. Do đó, những luật như vậy (chứ không phải là tính hợp-quy luật bên trong, Geseztmässigkeit) là thích đáng với thuyết cơ GIỚI hơn là với các loại hình tổ chức cao hơn.

Về căn bản, Hegel không thay đổi gì quan niệm của ông về các vấn đề này trong các tác phẩm sau đó.

Nguyễn Văn Sướng dịch

Từ điển luyện kim - Anh - Việt

law

định luật, quy luật, quy trình, định lý, quy tắc

Từ điển triết học Kant

Quy luật/Luật [Đức: Gesetz; Anh: law]

Xem thêm: Phạm trù, Mệnh lệnh, Công bằng, Châm ngôn, Tự nhiên, Bổn phận, Quyền, Quy tắc,

Khái niệm khái quát về quy luật, trong cả triết học lý thuyết lẫn triết học thực hành, có hai đặc điểm là tính phổ quát khách quan và tính tất yếu khách quan. Điều này phân biệt các quy luật lý thuyết với các quy tắc lý thuyết, và phân biệt các quy luật thực hành với các quy tắc thực hành và các lời khuyên. Một quy tắc lý thuyết về tương quan, như “nếu mặt trời chiếu đủ lâu trên một vật thể, nó sẽ nóng lên”, được biến thành một quy luật nếu nó được diễn đạt dựa theo tính nhân quả, như trong mệnh đề: “Mặt trời, do ánh sáng của chính nó, là nguyên nhân của sự tỏa nhiệt” (SL § 29). Trên phương diện này, “quy tắc về tương quan” được rút ra từ một phán đoán thường nghiệm được ban cho giá trị hiệu lực phổ quát và tất yếu của một quy luật (xem PPLTTT A 126). Một quy luật của triết học thực hành được mô tả tương tự như một quy luật có một “tính tất yếu tuyệt đối” (CSSĐ, tr. 389, tr. 2) phân biệt nó với các quy tắc của tài khéo lẫn với những lời khuyên của sự khôn ngoan; cái sau, giống như quy tắc lý thuyết về tương quan, chỉ có thể mang lại tính tất yếu có tính giả thiết chứ không mang lại tính tất yếu tuyệt đối hay nhất quyết (categorical).

Vượt khỏi sự giống nhau giữa các khái niệm lý thuyết và các khái niệm thực hành của quy luật là một vài khác biệt cực kỳ quan trọng. Tri thức lý thuyết liên quan đến “cái đang là” dựa theo tính nhân quả của các quy luật tự nhiên, trong khi tri thức thực hành liên quan đến cái “phải là” dựa theo tính nhân quả của các quy luật của tự do. Nghiên cứu của Kant về các quy luật lý thuyết khảo sát tính chất và các nguồn gốc của tính phổ quát và tính tất yếu của “cái đang là”, hay giới tự nhiên trong các phương diện mô thức và chất thể của nó, trong khi nghiên cứu của ông về các quy luật thực hành thẩm tra tính chất và các nguồn gốc xuyên suốt bổn phận hay “cái phải là”.

Nghiên cứu về các quy luật lý thuyết này nhấn mạnh mối quan hệ giữa các quy luật thường nghiệm của giới tự nhiên được các khoa học (vật lý, hóa học và sinh học) khám phá với các nguyên tắc của giác tính thuần túy. Trong PPLTTT, Kant chủ yếu quan tâm đến tính chất và các nguồn gốc của các quy luật vật lý; trong PPNLPĐ Kant chuyển sự quan tâm của mình sang sinh học. Trong PPLTTT, Kant mô tả mọi quy luật thường nghiệm như “những quy định đặc thù của các nguyên tắc của giác tính thuần túy”, vốn được mô tả như “sự ban bố quy luật cho tự nhiên” (A 127). Các nguyên tắc thường nghiệm áp dụng “các nguyên tắc cao hơn của giác tính” vào “các trường hợp đặc thù của hiện tượng” và rút ra tính tất yếu của chúng từ “các cơ sở có giá trị tiên nghiệm và có trước mọi kinh nghiệm” (A 159/ B 198). Điều này được rút ra từ tiên đề của Kant rằng các điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm là các điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm, hay nói khác đi, “các phạm trù là những khái niệm ĐỂ RA quy luật một cách tiên nghiệm cho hiện tượng, tức là cho giới tự nhiên hiểu như tổng thể (Inbegriff) mọi hiện tượng (natura materialiter spectata)” (B 163). Do đó, các quy luật vừa được chủ thể áp đặt cho tự nhiên vừa có giá trị hiệu lực phổ quát và tất yếu, và trong trường hợp vật lý học, có thể được tập hợp thành một tổng thể có hệ thống.

Trong trường hợp các quy luật của sinh học được bàn thảo trong Phần II của PPNLPĐ, Kant không quá tin vào tính phổ quát và tất yếu của các quy luật cơ giới. Kant cho rằng: “Điều hoàn toàn chắc chắn là ta không thể nhận thức hoàn chỉnh chứ đừng nói đến giải thích được những thực thể có tổ chức lẫn khả thể nội tại của chúng đơn thuần dựa theo các nguyên tắc cơ giới của tự nhiên” (PPNLPĐ § 75). Thậm chí: “Thật là phi lý cho con người chúng ta khi ta ra sức hay hy vọng sẽ có một Newton khác xuất hiện trong tương lai có thể làm cho ta hiểu rõ về sự sản sinh dù chỉ là của một lá cỏ dựa theo các định luật tự nhiên mà không do một ý đồ nào đã sắp đặt cả”. Ở đây tính không đầy đủ của các quy luật cơ giới của tự nhiên trong việc giải thích các hiện tượng sự sống được đặt ngang hàng với một luận chứng về khả thể cho sự hiện hữu của một “tóc giả [Đấng Tạo hóa] của thế giới”, tức người đã thiết kế các quy luật tự nhiên mà tính khả niệm của nó vượt quá những sự giới hạn của lý tính chúng ta.

Bàn thảo về các quy luật của tự do trong triết học thực hành được đặt cơ sở trên tiền đề của năng lực của lý tính thuần túy là có tính thực hành. Đó là ở việc “buộc châm ngôn của mọi hành động phải phục tùng điều kiện của việc định tính chất cho nó như là quy luật phổ quát” (SHHĐL, tr. 214, tr. 42). Vì các châm ngôn của con người không tự động tuân phục các điều kiện để trở thành những quy luật phổ biến, nên quy luật được quy định như một mệnh lệnh hay một điều lệnh. Các quy luật như thế có thể được phân biệt dựa theo việc chúng được hướng đến “các hành động bên ngoài”, trong trường hợp này chúng có tính pháp lý, hay hướng đến “việc quy định các cơ sở của hành động”, trong trường hợp này chúng có tính luân lý (tr. 214, tr. 42). Sự tuân phục của hành động đối với loại trước cấu thành tính pháp lý, trong khi sự tuân phục đối với loại sau cấu thành luân lý. Các quy luật pháp lý “có thể được nhận thức như có tính cưỡng chế một cách tiên nghiệm bởi lý tính, thậm chí không cần có sự ban bố quy luật bên ngoài” là các luật lệ của pháp quyền tự nhiên (natural laws), trong khi những quy luật đòi hỏi “hành động ban bố quy luật hiện thực bên ngoài” là các điều luật thực định (positive laws). Chỉ có quy luật nền tảng của luân lý và nguồn gốc của bổn phận luân lý mới là quy luật duy nhất, và nó được phát biểu trong nguyên tắc được đặt nền tảng một cách tự trị của mệnh lệnh nhất quyết: “Hãy hành động sao cho châm ngôn của ý chí của bạn lúc nào cũng đồng thời có thể có giá trị như là nguyên tắc của một sự ban bố quy luật phổ quát” (PPLTTH, tr. 30, tr. 31).

Mai Sơn dịch

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Gesetz /nt/KTA_TOÀN/

[EN] act

[VI] luật, quy luật, định luật

Từ điển toán học Anh-Việt

rule

quy tắc, quy luật; thước (tỷ lệ)

law

luật, quy luật; định luật; nguyên lý; công thức; định lý

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

observance

Tuân thủ, quy luật

regular

thông thường, quy pháp, quy luật (dòng tu), [giáo sĩ] dòng (đối lại là secular: [giáo sĩ] triều)

rule

Quy luật, quy phạm, q.tắc, luật dòng

Từ điển tổng quát Anh-Việt

Rule

Quy luật, điều lệ

Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Precept

Quy luật (cho hành vi).

Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

quy luật

Gesetz n, Gesetzmäßigkeit f. quy mô Umfang m, Maßstab m.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Quy luật

[VI] Quy luật

[DE] Gesetz

[EN] law

Quy luật

[VI] Quy luật

[DE] Gesetze

[EN]

Từ điển phân tích kinh tế

law

quy luật

Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

law

quy luật

 law

quy luật