Lao động [Đức: Arbeit; Anh: Labour]
Là sự thao túng môi trường tự nhiên thông qua việc sử dụng công nghệ, được dẫn hướng bởi lý tính công cụ. Thuật ngữ này đóng vai trò quan trọng trong công trình thời kỳ đầu của Habermas, và nhất là trong lý thuyết về các lợi ích hay quan tâm về nhận thức (Habermas, 1971a). Ở đó, lao động được coi như một trong ba đặc trưng cơ bản để được gọi là con người. Trong khi khái niệm về lao động có lẽ là quen thuộc nhất trong công trình của Karl Marx (Habermas, 1971a, tr. 25–42), thì Habermas lại thấy khái niệm này đã được phát triển từ trước trong các tác phẩm thời kỳ đầu của triết gia Đức Hegel (Habermas, 1976a, 142–169). Chính thông qua lao động, con người can dự vào thế giới vật chất quanh mình, và cải biến nó. Con người không chỉ là những sinh vật biến đổi môi trường của họ, mà như cả Hegel và Marx đã làm rõ, con người thực hiện việc chọn lựa và sự tự trị trong việc tạo nên những sự biến đổi này (đối nghịch với con ong chỉ hành động theo bản năng). Những sự cải biến như vậy cho phép con người phát triển, học hỏi thêm về môi trường, và về cả bản thân mình và họ thiết lập nên những công nghệ ngày càng phức tạp hơn. Trong khi Marx nhấn mạnh phương diện này của lao động (xem: Marx 1976: 284), thì với Habermas, Hegel trẻ đưa ra giải thích thoả đáng hơn qua việc thừa nhận lao động nhất thiết gắn bó với khả năng sử dụng ngôn ngữ của con người. Chỉ qua ngôn ngữ con người mới được giải phóng khỏi bản tính động vật của mình. Trong khi động vật phản ứng ngay tức thì với những ham muốn của nó, sử dụng bất cứ năng lực tự nhiên nào mà nó có để thoả mãn chúng, thì con người một khi đã làm chủ ngôn ngữ, có thể thao túng đối tượng của ham muốn trong tâm trí trước khi hành động. Con người có thể tưởng tượng ra các công cụ mới, và khám phá ra các cách khác nhau để điều khiển các đối tượng tự nhiên. Con người học hỏi thông qua thử nghiệm những khả thể thuần tuý tưởng tượng đối nghịch với thế giới thực tại – những ý tưởng vô hiệu hay vô tác dụng sẽ được phơi bày bởi thất bại của các kế hoạch. Tuy nhiên, những thất bại như vậy dẫn đến tri thức mới và tinh tế hơn, và vì vậy, với Habermas, lao động cung cấp nền tảng cho các khoa học tự nhiên.