TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

pháp quyền

Pháp Quyền

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

pháp luật

 
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển triết học Kant
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

pháp quyền/pháp luật

 
Từ điển triết học HEGEL

quyền tài phán

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thẩm quyền xét xử

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quyền/pháp quyền/pháp luật

 
Từ điển triết học Kant

quyền

 
Từ điển triết học Kant

công bằng/công lý/pháp quyền

 
Từ điển triết học Kant

công bằng

 
Từ điển triết học Kant

công lý

 
Từ điển triết học Kant

luật học

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

luật khoa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

pháp lí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hợp pháp

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

dung luật

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hợp lí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chính đáng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thật thà

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thẳng thắn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

trung thực

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chính trực.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
quyền tư pháp

quyền tư pháp

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thẩm quyền xét xử

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quyền tài phán

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

pháp quyền

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

pháp quyền

right

 
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển triết học Kant

legal right

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

right/rights

 
Từ điển triết học Kant

rights

 
Từ điển triết học Kant

justice

 
Từ điển triết học Kant

Đức

pháp quyền

recht

 
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển triết học Kant

Rechts

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Jurisdiktion

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

rechte

 
Từ điển triết học Kant

rechtlich

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
quyền tư pháp

Gerichts

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

rechtlich /a/

1. [thuộc] luật học, luật khoa, pháp quyền, pháp lí, pháp luật; 2. hợp pháp, dung luật, hợp lí, chính đáng; 3. thật thà, thẳng thắn, trung thực, chính trực.

Từ điển triết học Kant

Quyền/Pháp quyền/Pháp luật [Latinh: ius; Đức: Recht, Rechte; Anh: right/rights]

Xem thêm: Sở đắc, Cấu tạo, Khế ước, Tự do, Luật học, Công bằng, Quy luật, Quyền tự nhiên, Trước tác chính trị, Nhà nước,

Trong LTTH, Kant định nghĩa pháp quyền nói chung như “sự hạn chế sự tự do của mỗi cá nhân sao cho nó hài hòa với sự tự do của mọi người khác” (tr. 73), và trong SHHĐL, ông phân biệt giữa các loại quyền khác nhau vốn nảy sinh từ định nghĩa chung này. Sự phân biệt chính yếu của Kant là giữa a) các quyền tự nhiên dựa trên các cơ sở tiên nghiệm và b) các quyền thực định (hiến định) vốn “nảy sinh từ ý chí của một nhà lập pháp” (SHHĐL, tr. 237, tr. 63). Sự phân biệt “có tính học thuyết” này được tiếp tục bằng một sự phân biệt được trình bày dựa theo các năng lực luân lý giữa a) các quyền “tự nhiên” thuộc về mọi người bởi tự nhiên; và b) các quyền sở đắc đòi hỏi phải có một hành vi xác lập chúng. Tuy nhiên, những sự phân biệt này đều phụ thuộc vào sự phân biệt pháp lý giữa các quyền tư pháp và quyền công pháp, hay các quyền được xác lập giữa các cá nhân với các quyền được xác lập giữa cá nhân và nhà nước. Kant mô tả cái trước như riêng có đối với một “trạng thái của tự nhiên” và cái sau như riêng có đối với nhà nước dân sự. Do đó, phần đầu của cuốn SHHĐL bàn về “Các Nguyên tắc siêu hình học đệ nhất của Học thuyết về Pháp Quyền” được chia thành những mục bàn về tư pháp và công pháp, về tư pháp, trước hết Kant bàn về khái niệm quyền đối với cái gì đó bên ngoài, sau đó là về các phương cách sở đắc những quyền ấy, bằng sự sở đắc nguyên thủy hoặc bằng khế ước. Mặc dù chi tiết của lập luận của ông thường tối tăm và mâu thuẫn hiển nhiên, nhưng dường như ông muốn gợi ý rằng các quyền đối với sự vật (in re) là một loại quyền giữa các nhân thân (in personam). Ông đảo ngược sự nhấn mạnh này khi bàn về các quyền nằm trong hôn nhân, dòng dõi và của “người chủ gia đình”; vì những điều này, ông phát triển “các quyền đối với các nhân thân gần gũi với các quyền đối với các sự vật”. Về công pháp, Kant xem xét pháp quyền nội bộ của một nhà nước, quyền của các quốc gia và quyền của công dân thế giới, tất cả bên trong ngữ cảnh lập luận chính trị rộng hơn của ông về một nhà nước và hiến pháp “cộng hòa”.

Châu Văn Ninh dịch

Công bằng/Công lý/Pháp quyền [Đức: Recht; Anh: justice]

Xem thêm: Hôn nhân, Sở hữu, Quyền sở hữu, Hình phạt, Quyền, Xã hội, Nhà nước,

Những bàn luận của Kant về pháp quyền trong SHHĐL có thể được phân chia thành dân luật và hình luật: dân luật liên quan đến những mối quan hệ của những cá nhân với nhau; hình luật liên quan đến những mối quan hệ giữa những cá nhân và luật hình sự công cộng. Ông trình bày ba hình thức của luật dân sự, tức luật phòng vệ, luật giao dịch và luật phân phối, xem hai cái đầu bao gồm tư pháp, cái thứ ba bao gồm công pháp. Ông còn xếp luật giao dịch và luật phân phối vào dưới quyền tự nhiên, hay còn gọi là quyền không theo luật định mà mọi người có lý tính đều có thể nhận biết một cách tiên nghiệm; như thế, quyền tự nhiên “không chỉ bao gồm công lý giữa các nhân thân với nhau (iustitia commutative) mà cả công lý phân phối nữa (iustitia distributive)” (SHHĐL, tr. 297, tr. 113). Hai hình thức đầu của công lý hiện diện trong trạng thái tự nhiên, nhưng hình thức thứ ba chỉ có thể có trong “điều kiện dân sự” với sự hiện hữu của một tòa án để thực thi công lý phân phối.

Sự phân biệt giữa công lý giao dịch và công lý phân phối được Kant minh họa rất hay qua ví dụ về việc mua một con ngựa. Một quyền được xác lập “theo đúng những thủ tục của hành vi trao đổi (commutatio) giữa chủ sở hữu sự vật và người đang [muốn] thủ đắc nó” (SHHĐL, tr.301, 116). Nhưng đây chỉ là một quyền giữa những nhân thân (ius ad personam), chứ không phải một quyền đối với một sự vật (irus ad rem). Do đó, những chủ sở hữu với những quyền nhân thân ưu tiên dựa theo công lý giao dịch có thể lấn lướt và đứng ra tuyên bố một quyền lợi. Điều này dẫn đến tình huống trong đó “không có sự giao dịch nào về những sự vật bên ngoài, cho dù nó có thể nhất trí với những điều kiện hình thức của loại công bằng này (iustitia commutativa) như thế nào đi nữa, có thể bảo đảm một sự thủ đắc chắc chắn” (SHHĐL, tr. 302, 117). Trong khi sự thủ đắc không thể được đảm bảo trong một trạng thái tự nhiên, có thể dẫn đến sự không-công bằng, thì bên trong trạng thái dân sự, nó có thể được đảm bảo trước một tòa án bằng sự công bằng phân phối. Điều này đạt đến được bằng việc tòa án biến đổi một quyền nhân thân thành một quyền hiện thực: “Cái gì tự thân là một quyền dựa vào một nhân thân, khi được mang ra trước một tòa án, sẽ được xem như một quyền đối với một sự vật” (SHHĐL, tr. 303, 118). Bằng cách này, công bằng phân phối được sử dụng để đảm bảo những yêu sách của công bằng giao dịch đối với sự sở hữu và sự trao đổi.

Quan niệm của Kant về pháp quyền hình sự là sự đáp trả kiên quyết có tính trừng phạt, dựa trên ius talionis [luật đáp trả] hay một “nguyên tắc” tiên nghiệm “về sự bình đẳng” qua đó tòa án áp dụng một hình phạt cho người phạm tội ngang bằng với sự phạm tội của họ. Chẳng hạn, kẻ trộm có thể bị trừng phạt bằng tình trạng khổ sai tạm thời hoặc vĩnh viễn; những kẻ giết người và những tòng phạm của chúng phải chịu hình phạt tử hình, ở đây Kant phản bác thẳng thừng những ý tưởng của Cesare Beccaria (1783-1794) (xem Beccaria, 1764); và Kant cho rằng những kẻ hãm hiếp và những kẻ đồng bóng phải bị hoạn. Ông cũng không khoan nhượng trước logic có tính đáp trả này trong những trường hợp như giết trẻ Sổ sinh của người mẹ đối với một đứa trẻ bất hợp pháp: việc sinh ngoài giá thú đặt đứa trẻ “bên ngoài sự bảo vệ của pháp luật” và vì thế luật pháp sẽ “làm ngổ” trước “sự tiêu diệt một đứa trẻ như thê” (SHHĐL, tr. 337, tr. 145). “Tính nhân thân bẩm sinh” của con người đòi hỏi rằng không được đối xử với con người như “những sự vật” chỉ đưa đến việc là hình phạt chỉ dành cho tội ác, chứ không phải như một phưong tiện cho mục đích khác nào đó (chẳng hạn, khiến những người khác sợ không làm, hoặc phục hồi [nhân phẩm]). Nó không nói lên quyền trừng phạt của nhà nước, mà đảm bảo rằng hình phạt là có thể tiên liệu và không-thiên lệch. Mặc dù luận cứ về trừng phạt như là sự đáp trả của Kant đã được Hegel phát triển (1821), [nhưng] mãi đến gần đây nó vẫn bị che mờ bởi những nghiên cứu “ngoại trị” nhấn mạnh đến mục đích ngăn chặn và phục hồi [nhân phẩm] qua vai trò của hình phạt. Tuy nhiên, từ thập niên 1980, đã có sự quan tâm trở lại đối với những triết học về hình phạt như là sự đáp trả, nổi bật với phiên bản của Kant.

Kant kết thúc cuốn SHHĐL với một số suy nghĩ về công lý thần linh. Ông lập luận rằng công lý thần linh không được hiểu thông qua những sự tư ổng tự [loại suy] với công lý dân sự hay công lý trừng phạt. Công lý thần linh không thừa nhận những quyền và những bổn phận, nó cũng không có tính trừng phạt; những mối quan hệ như thế chỉ có thể được áp dụng cho những mối quan hệ giữa con người, chứ không phải đối với tính thần linh. Điều này đánh dấu một sự áp dụng thú vị sự ngăn cấm có tính phê phán nói chung về việc mở rộng những mối quan hệ dựa trên tính hữu hạn của con người vào những đối tượng tuyệt đối.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Jurisdiktion /[jurisdik'tsio:n], die; -, -en (PL selten)/

(bildungsspr ) pháp quyền; quyền tài phán; thẩm quyền xét xử (Recht sprechung, Gerichtsbarkeit, Gerichtshoheit);

Gerichts /bar.keit, die; -, -en/

(o Pl ) quyền tư pháp; thẩm quyền xét xử; quyền tài phán; pháp quyền;

Từ điển triết học HEGEL

Pháp quyền/Pháp luật [Đức: Recht; Anh: right]

Tính từ recht có hầu hết những nghĩa của từ cùng gốc là “right” trong tiếng Anh. Nó có nghĩa nguyên thủy là “thẳng”, rồi “đúng đắn” (richtig/ Anh: correct), và, do đó, là “hợp pháp; công chính (gerecht); thiện về mặt đạo đức”. (“Die rechte Hand”, nghĩa đen là “tay phải”, ngụ ý việc sử dụng đúng đắn). Tính từ recht trở thành từ số ít trung tính (das) Recht. Từ này có nghĩa: (1) một quyền hạn; (2) công lý (như trong “thực thi công lý”, “có lẽ phải về phía mình”, nhưng không theo nghĩa của một đức hạnh, vì đó sẽ là từ “công bằng”, Gerechtigkeit); (3) “pháp luật” như một nguyên lý, hay “pháp luật theo nghĩa tập thê” (ví dụ: “luật La Mã”, “luật quốc tế’, Völkerrecht)”, nhưng không phải là những đạo luật đặc thù (Gesetze/Anh: “laws”). Recht tương ứng với từ La-tinh ius, từ tiếng Pháp droit, tiếng Ý diritto, tương phản với lex, loi, legge (“điều luật”, Gesetz). Không có từ tiếng Anh duy nhất nào thỏa ứng chức năng này. Recht đi vào trong nhiều từ phức hợp, nổi bật là Staatsrecht (“luật hiến pháp”) và Naturrecht (“luật tự nhiên”).

Trong triết học (chẳng hạn trong Kant và Fichte), Recht thường được dùng để chỉ những quy phạm và định chế pháp luật, tương phản với Moralität (“luân lý”) và Sittlichkeit (“đời sống đạo đức”). Fries phát triển ý tưởng rằng Recht chỉ liên quan đến hành vi bên ngoài, trong khi luân lý liên quan đến Gesinnung (“tâm thể’/Anh: “disposition”). Hegel thường dùng Recht theo nghĩa hẹp này, cả trong DBTH, trước quyển THPQ, và trong BKTIII §448 và tiếp), sau quyển THPQ. Nhưng, trong THPQ, Recht lại được dùng theo nghĩa rộng, bao hàm cả Moralität và Sittlichkeit, cùng với lịch sử thế giới, đồng thời cả theo nghĩa hẹp (tương ứng với abstraktes Recht (“pháp quyền trừu tượng” trong THPQ §§34-104), gồm tư hữu, hợp đồng và sự phi pháp, và cả tội ác và sự trừng phạt). Có nhiều lý do cho điều này:

1. Với Kant và Fichte, Sittlichkeit tưong đưong với Moralität, và cả hai đều tưong phản với Recht. Nhưng, việc Hegel tái định nghĩa từ Sittlichkeit cho thấy từ này từ nay bao trùm hầu hết những gì trước đây được bàn dưới tiêu đề của Recht, tức luật pháp và Staatrecht. (Ngay cả trong BKTIII, Rechtspflege, “quản trị và thực thi pháp luật”, cũng thuộc tiêu đề Sittlichkeit hon là Recht (§§ 529 và tiếp); vì thế, nó không còn đon giản tưong phản với Recht nữa. Moralität là khâu trung gian giữa abstraktes Recht, “pháp quyền trừu tượng” và Sittlichkeit, “đời sống đạo đức”: pháp quyền trừu tượng hiện thân sự tự do trong một đối tượng bên ngoài; biểu hiện phưong diện khách quan của pháp quyền, và Moralität là phưong diện chủ quan, trong khi Sittlichkeit kết hợp cả tính chủ quan lẫn tính khách quan. Vì thế, thật tự nhiên khi bao hàm Moralität dưới tiêu đề của Recht. Trong BKTIII §§ 483 và tiếp, thuật ngữ “Tinh thần khách quan” bao quát cùng một lĩnh vực như Recht trong THPQ. Và còn tự nhiên hon nữa, khi (như trong BKTIII, chứ không phải trong THPQ), Tinh thần “khách quan” tưong phản với Tinh thần “chủ quan” và Tinh thần “tuyệt đối”.

2. Hegel luôn ý thức rằng Recht có nghĩa là “quyền hạn”, đồng thời có nghĩa là “luật pháp”. Nhưng, luân lý (Moralität) cũng dành một số quyền hạn cho mỗi cá nhân, chẳng hạn, quyền không bị xem là phải chịu trách nhiệm, về luân lý hay pháp lý, đối với những hành động được thực hiện một cách vô ý thức. Lịch sử thế giới cũng được bao hàm trong Recht, một phần vì sự kiện rằng trong lịch sử thế giới, “tòa án thế giới”, “tinh thần thế giới” hành xử “quyền hạn” của nó, “quyền hạn cao hon tất cả” đối với những “tinh thần dân tộc hữu hạn” (Volksgeister) (THPQ §340).

3. Sự tư ổng phản giữa luân lý và pháp quyền phụ thuộc một phần vào lòng tin rằng chúng có thể xung đột với nhau, rằng những gì được luật pháp cho phép hay thậm chí đòi hỏi, cũng có thể là phản luân lý. Nhưng, theo quan niệm của Hegel, luân lý và pháp quyền kỳ cùng không thể xung đột với nhau được: việc phê phán về mặt luân lý đối với những thực trạng xã hội và pháp luật, nếu có, thì cũng hiếm khi là thích đáng hay có thể đứng vững về mặt thuần lý. Pháp quyền có thể không thỏa đáng đối với lương tâm luân lý của những người công dân của mình, hay có thể có khuyết tật theo những cách thức khác nữa. Nhưng, những khuyết tật này không phải do lương tâm luân lý cá nhân nhận ra, mà do việc khảo sát về sự hợp-lý tính vốn có trong bản thân pháp quyền. Vì thế, THPQ có mục đích là giới hạn những yêu sách của Moralität và tìm cách tích hợp Moralität vào trong hệ thống pháp quyền.

4. Tương phản với luân lý (Moralität), pháp quyền trừu tượng là tương đối có tính khách quan. Nhưng, nó cũng phát triển cá nhân thành một nhân thân tự giác. Recht và Sittlichkeit, giống như Moralität, không đơn giản điều tiết hành vi bên ngoài của những cá nhân vốn đã là những con người được hình thành đầy đủ: trái lại, chúng định hình họ, qua nhiều giai đoạn, thành những con người đích thực. Vì thế, Fichte, trong PQTN, đã sai lầm khi cho rằng Recht bao hàm sự cưỡng chế, trong khi Moralität thì không: theo Hegel, Recht, không khác gì Moralität, cũng đòi hỏi sự phục tùng của cá nhân, và bảo vệ cá nhân bằng cách đào luyện họ cho những mục đích của nó. Recht, Moralität và Sittlichkeit, vì thế, là những giai đoạn của một công cuộc duy nhất.

Thuật ngữ Naturrecht (được Leibniz du nhập từ chữ La-tinh ius naturale, và tương phản với positives Recht / “pháp luật thực định”) xuất hiện trong nhan đề của quyển THPQ, cũng như của PQTN. Nhưng, Hegel bác bỏ quan niệm vốn thường gắn liền với thuật ngữ này, theo đó con người có một số quyền hạn và phải được cai trị bởi một số luật lệ hoàn toàn độc lập, và có thể hoàn toàn trái với những pháp luật mà họ đang tuân thủ và với những phương thức họ đang được cai trị trong các xã hội hiện thực. Trái lại, ông tỏ ra có thiện cảm hơn với quan niệm, bắt nguồn từ Aristoteles, rằng một số nguyên lý tổng quát có thể được rút ra từ việc xem xét con người như là một thực thể xã hội, và rằng tuy các nguyên lý này phần lớn là nền tảng cho trật tự xã hội và chính trị hiện tồn, chúng cũng có thể được sử dụng cho việc thẩm định bên trong và cho việc cải thiện xã hội. Nhưng, ông phân biệt quan niệm này với Naturrecht nói chung. Trong BKTIII §502, ông cho rằng Naturrech quy chiếu một cách hàm hồ đến hai quan niệm, liên quan đến hai nghĩa khác nhau của “tự nhiên" (Natur):

(a) Nếu “tự nhiên” được dùng để tương phản với “tinh thần” và “xã hội”, thì Naturrecht là Recht (“quyền hạn”) có được trong “trạng thái tự nhiên” (Naturzustand). Bấy giờ, xã hội dân sự và nhà nước đòi hỏi phải giới hạn sự tự do và các quyền tự nhiên của ta. Nhưng, theo ông, pháp quyền và các quyền hạn chỉ có được ở trong xã hội: “trạng thái tự nhiên là trạng thái của bạo lực và của sự phi pháp hay vô luật pháp (Unrecht)”.

(b) Nếu “tự nhiên” được dùng để chỉ “bản chất” của pháp quyền, thì Naturrecht là Recht đúng như nó được quy định bởi khái niệm về pháp quyền. Theo nghĩa này, Naturrecht (“pháp quyền tự nhiên”) không phải là “tự nhiên” theo nghĩa (a), và phải dựa trên cơ sở của “nhân cách hay tính nhân thân tự do”.

Lý thuyết (b) chính là lý thuyết của Hegel. Tuy nhiên, ngay cả quyền của nhân cách tự do cũng là một sản phẩm lịch sử của Đế quốc La Mã, và không được thực hiện ở mọi nơi và mọi thời, chẳng hạn, trong Hy Lạp cổ đại. Ông bác bỏ (a), không chỉ vì sự gắn kết của nó với “trạng thái tự nhiên” giả tưởng, mà còn vì nó đánh giá quá cao ý chí đặc thù của cá nhân. Tự do không phải ở chỗ tự do làm theo ý thích, mà ở chỗ là con người được phát triển một cách đầy đủ.

Trong nhà nước hiện đại, cá nhân có một số quyền hạn “trừu tượng” và “hình thức” không thể xuất nhượng (unveräusserlich/ Anh: unalienable) và không có thời hiệu (unverjährbar/Anh: imprescriptible), tức những quyền hạn tạo nên nhân cách của tôi, chẳng hạn như quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền sở đắc và sở hữu tài sản v.v. (THPQ §66). Những quyền hạn như thế không thể được những người khác vi phạm. Nhưng, vì lẽ pháp quyền tự nhiên chỉ là giai đoạn thấp nhất trong ba giai đoạn của Recht, nên các quyền trừu tượng không được miễn trừ khỏi sự can thiệp từ các lĩnh vực cao hơn, đó là lĩnh vực của Moralität và Sittlichkeit: một con người mà mạng sống bị đe dọa trực tiếp có quyền thủ đắc tài sản của người khác, và nếu người ấy lấy trộm, thì “thật sai lầm khi xem hành vi ấy như là hành vi trộm cắp thông thường” (THPQ §127A). Hegel không làm rõ phải chăng quyền trộm cắp chỉ là một quyền luân lý hay một quyền có thể (hoặc cần phải) cương bách về mặt pháp lý; nhưng, theo ông, một con nợ có quyền pháp lý lẫn luân lý giữ lại một ít tài sản của chủ nợ để có thể sinh tồn (THPQ §127). Một nhà nước đang có chiến tranh có quyền đòi hỏi những công dân của mình hy sinh tính mạng và tài sản (THPQ §324). Việc biện minh cho điều này không phải ở chỗ sự hy sinh một số quyền hạn của một số cá nhân là cần thiết cho việc bảo tồn những quyền hạn của những cá nhân khác. Nhưng vì, theo Hegel, mục đích trung tâm của nhà nước không phải là bảo vệ những quyền trừu tượng (đối với tài sản v.v.) của công dân của mình. Nhưng, do những công dân của một nhà nước cũng phải là những nhân thân (và do con người, về bản chất, là tự do), nên cũng phải có những sự giới hạn quyền của nhà nước, không cho phép vi phạm hay thủ tiêu các quyền trừu tượng: chẳng hạn, nhà nước không có quyền bắt công dân làm nô lệ hay cho phép việc nô lệ hóa công dân của mình (hay bất kỳ con người nào khác).

Trong lĩnh vực pháp quyền trừu tượng, việc sở hữu các quyền không dẫn đến các nghĩa vụ, ngoại trừ nghĩa vụ phải tôn trọng quyền hạn của những người khác, trong khi đó, trong đời sống đạo đức (Sittlichkeit), con người chỉ có những quyền hạn (chẳng hạn trong hôn nhân) trong chừng mực có những nghĩa vụ, và ngược lại (THPQ §155).

Cù Ngọc Phương dịch

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Pháp Quyền

[EN] legal right

[DE] Rechts

[VI] Pháp Quyền

[VI] Quyền hạn có từ luật pháp