TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

wahrnehmung

Tri giác

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

sự nhận thức

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

sự tri giác

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

phân biệt

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nhận biét

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tiếp thu

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lĩnh hội

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cảm thụ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

quan sát

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cảm thây

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tiếp nhận tin túc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tuân thủ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tuân theo

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nghiêm thủ.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cảm giác

 
Từ điển triết học HEGEL

trực quan

 
Từ điển triết học HEGEL

cảm giác và cái cảm tính

 
Từ điển triết học HEGEL
antizipationen der wahrnehmung

dự đoán của tri giác

 
Từ điển triết học Kant

Anh

wahrnehmung

perception

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

cognition

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

notice

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

sensation

 
Từ điển triết học HEGEL

intuition

 
Từ điển triết học HEGEL

sensation and the sensory

 
Từ điển triết học HEGEL
antizipationen der wahrnehmung

anticipations of perception

 
Từ điển triết học Kant

anticipations

 
Từ điển triết học Kant

perception

 
Từ điển triết học Kant

Đức

wahrnehmung

Wahrnehmung

 
Metzler Lexikon Philosophie
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

empfindung

 
Từ điển triết học HEGEL

anschauung

 
Từ điển triết học HEGEL

empfindung und das sinnliche

 
Từ điển triết học HEGEL

Darstellung

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
antizipationen der wahrnehmung

antizipationen der wahrnehmung

 
Từ điển triết học Kant

antizipationen

 
Từ điển triết học Kant

wahrnehmung

 
Từ điển triết học Kant

Pháp

wahrnehmung

représentation

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Darstellung,Wahrnehmung

représentation

Darstellung, Wahrnehmung

Từ điển triết học HEGEL

Tri giác, Cảm giác [Đức: Wahrnehmung, Empfindung; Anh: perception, sensation]

> Xem Trực quan, Tri giác, Cảm giác và cái Cảm tính Đức: Anschauung, Wahrnehmung, Empfindung und das Sinnliche; Anh: intuition, perception, sensation and the sensory]

Trực quan, Tri giác, Cảm giác và cái Cảm tính [Đức: Anschauung, Wahrnehmung, Empfindung und das Sinnliche; Anh: intuition, perception, sensation and the sensory]

Những chữ đáng chú ý nhất trong lĩnh vực này là:

1. Anschauung (trực quan) nguyên là chữ dùng cho thị giác, bắt nguồn từ động từ anschauen (trực quan, nhìn) và schauen (nhìn). Nó thường có nghĩa là “quan niệm” hay “quan điểm” (do đó có chữ Weltanschauung [thế giới quan]). Tuy nhiên, chữ này được Eckhart du nhập vào tiếng Đức triết học khi ông dịch chữ La-tinh contemplatio, theo nghĩa là hoạt động hay kết quả của việc chiêm ngưỡng (suy ngẫm, nhìn ngắm) cái gì đó, nhất là cái vĩnh hằng và thần linh. Trực quan ngụ ý sự tiếp xúc trực tiếp, không suy lý với ĐỐI TƯỢNG, và việc CHỦ THỂ được hấp thụ hoàn toàn vào trong đối tượng ấy.

Trong triết học thời sau, trực quan có hai nghĩa rộng: một là, sự chiêm ngưỡng trí tuệ, chẳng hạn chiêm ngưỡng các Ý NIỆM của Plato (theoria trong tiếng Hy Lạp nghĩa là “chiêm ngưỡng, TƯ BIỆN”); hai là, ấn tượng cảm tính hay cảm giác. Kant lập luận rằng mọi trực quan của con người đều là cảm tính (sinnlich): tư tưởng cần có đối tượng, và đối tượng chỉ có thể “được mang lại” bằng trực quan. Nhưng GIÁC TÍNH cùng với các KHÁI NIỆM của nó chỉ có thể “suy tưởng” các trực quan và đối tượng, chứ không mang lại chúng. Kant cho phép có khả thể cho một trực quan trí tuệ (intellektuelle Anschauung), tức mang lại một đối tượng mà không cần sự trự giúp của cảm giác. Nhưng trực quan trí tuệ, cao điểm là sáng tạo ra đối tượng chỉ bằng cách suy tưởng về nó, theo Kant, thì chỉ dành riêng cho Thượng Đế.

Việc Kant nỗ lực giới hạn trực quan vào cái cảm tính đã bị thách thức theo hai hướng. Một là, những nhà phê phán như Hamann và Herder đã công kích sự phân chia rạch ròi của ông giữa trực quan và khái niệm. Goethe nói về một sự “trực quan (Anschauen) về bản tính sáng tạo bên trong” sẽ nắm bắt được cái “nguyên mẫu” hay Ý NIỆM (Intuitive Judgment [Năng lực Phán đoán Trực quan], 1817). Trực quan như thế sẽ lĩnh hội một hiện tượng như một cái toàn bộ cùng với những tư ổng tác qua lại của các bộ phận của nó. Nó không bỏ qua các khái niệm, mà chỉ tưong phản với tư duy phân tích khái niệm mà thôi. Hai là, Pichte cho rằng triết gia trở nên có ý thức về cái Tôi thuần túy bằng một hành vi trực quan trí tuệ. Schelling tiếp tục ý tưởng này, và khi cái TUYỆT ĐỐI của ông không còn là cái Tôi và trở thành một sự ĐỒNG NHÂT trung tính, thì, ông tin rằng, cái tuyệt đối được nắm bắt bởi trực quan trí tuệ.

Trực quan cảm tính, theo Hegel, bao hàm sự biến đổi những gì được cảm giác (das Empfundene) thành một đối tượng bên ngoài (BKT III, §448A). NGHỆ THUẬT trình bày cái tuyệt đối trong HÌNH THỨC của trực quan cảm tính, tưong phản với HÌNH TƯỢNG/BIỂU TƯỢNG (Vorstellung' ), vốn là hình thức của TÔN GIÁO, và với Tư TƯỞNG, là hình thức của TRIẾT HỌC. Trong những tác phẩm thời đầu, nhất là cuốn KBFS, Hegel gắn bó với ý tưởng của Schelling về một trực quan “siêu nghiệm” hợp nhất những cái ĐỐI LẬP, chẳng hạn như hợp nhất Tự NHIÊN và TINH THẨN. Thế nhưng, về sau ông lại phê phán trực quan trí tuệ, vì nó có tính TRựC TIẾP, và, khác với NHẬN THỨC khái niệm, nó không phoi bày những tiền giả định và cấu trúc lô-gíc của đối tượng. Trực quan, thậm chí là trực quan kiểu Goethe, dù cho phép ta nhìn sự vật như một cái toàn bộ, chứ không phân mảnh, chỉ có thể là khúc dạo đầu cho nhận thức (BKTIII, §449A). Tuy nhiên, Lô-gíc học của Hegel, vì nó là tư tưởng không-thường nghiệm về các tư tưởng, có phần tưong đồng với trực quan trí tuệ theo nghĩa của Kant. Khác với Kant, Hegel không băn khoăn gì về việc đồng hóa con người với THƯỢNG ĐỂ.

2. Empfindung (cảm giác, TÌNH CẢM) gần với trực quan cảm tính. Nhưng nó mang hoi hướng chủ quan hon và không nhất thiết chứa đựng sự ý thức về một đối tượng. Vì vậy trong BKTIII, cảm giác thuộc về “giác hồn’, còn trực quan thuộc về “tinh thần lý thuyết”

3. Sinn có một dãy nghĩa rộng, đại thể nhưng không hoàn toàn giống với nghĩa của “sense” trong tiếng Anh: (a) “cảm nhận”, “cảm thức” (chẳng hạn về âm nhạc, về lịch sử, hay về sự hài hước); (b) năm “giác quan”, “tâm trí” (chẳng hạn một ý vừa nảy ra trong “tâm trí” tôi; mất trí, hay tỉnh trí; chúng tôi nhất trí), (c) “nghĩa” của một chữ, một nhận định, một tác phẩm nghệ thuật, một hành động, của cuộc đời, V.V., (Sinn theo nghĩa cuối này thì chủ quan hon Bedeutung “ý nghĩa”: Sinn là nghĩa của một chữ trong một ngữ cảnh, chứ không phải (những) nghĩa trong Từ điển). Tính từ sinnlich và danh từ trừu tượng Sinnlichkeit (do Wolff dùng để dịch chữ La-tinh sensibilitas, sensualitas) chỉ tưong ứng với một số nghĩa của Sinn: những gì là sinnlich thì có thể tri giác được bằng các giác quan, tức “cảm tính”, “cảm giác”. Nếu áp dụng cho người hay một phưong diện của con người, nó có nghĩa là “bị những ham muốn cảm tính hay ham muốn thể lý, nhất là ham muốn nhục cảm, thống trị”. Hegel thường sử dụng das Sinnliche (cái cảm tính) tương phản với “BIỂU TƯỢNG”, “tư tưởng”, v.v. Cảm năng (Sinnlichkeit/Anh: sensibility) là: (a) năng lực thu nhận những kích thích cảm giác từ các đối tượng, nhờ đó, theo quan niệm của Kant, các trực quan (và qua đó các đối tượng) được mang lại cho ta; (b) KINH NGHIỆM của ta hay bản tính của ta, trong chừng mực chứa đựng kinh nghiệm cảm giác và tình cảm, ham muốn thể lý, v.v. tương phản với tư tưởng, LÝ TÍNH, v.v.

Vì cảm tính và những từ phái sinh của nó tương phản với “tư tưởng”, và tư tưởng có thể hoặc thuần túy hoặc chứa đựng chất liệu cảm tính, nên cảm tính trong Hegel có thể biểu thị hoặc chất liệu cảm tính thô hoặc chất liệu cảm tính đã được khái niệm hóa. Tương ứng, übersinnlich (siêu-cảm tính) có thể có nghĩa hoặc những gì hoàn toàn siêu việt khỏi cái cảm tính và chỉ duy tư tưởng mới có thể tiếp cận được hoặc, như trong HTHTT III, cái cảm tính đã được khái niệm hóa đến mức đã trở thành HIỆN TƯỢNG (Erscheinung). (Phát biểu của Hegel rằng “cái siêu-cảm tính là CHÂN LÝ hay sự thật của cái cảm tính và cái có thể tri giác, tức là hiện tượng”, cũng phụ thuộc vào sức mạnh của tiếp đầu ngữ über-, nghĩa là “vượt qua, vượt khỏi”, nhưng cũng nghĩa là “quá mức”, chứ không phải “không-”, hay “phi-”).

4. Wahrnehmung (tri giác) là Ý THỨC cảm tính về các đối tượng bên ngoài (và có nghĩa phái sinh là ý thức cảm tính về các trạng thái và tiến trình bên trong của ta). (Theo nghĩa thông thường, nó còn có nghĩa là “quan sát”, vì thế là “quan tâm, bảo vệ” (chẳng hạn, bảo vệ lợi ích của mình), và wahrnehmen có nghĩa là “quan sát, tận dụng, nắm lấy (chẳng hạn, nắm lấy một cơ hội), bảo vệ, thực hiện (một vai trò hay một chức năng), cũng như “tri giác”). Vì vậy, tương phản với cái cảm tính, nơi Hegel, cảm giác, và trực quan (theo nghĩa của Kant), về bản chất có một yếu tố khái niệm. Đối với Hegel, trong khi sinnliche Gewissheit (sự XÁC TÍN cảm tính) là sự lĩnh hội (Auffassen) vô-khái niệm về những cái đặc thù cảm tính, thì tri giác (Wahrnehmung) xem chúng như cái PHỔ BIỂN, như những sự VẬT có các thuộc tính phổ biến (HTHTT, I, II). Ông cho rằng Wahrnehmung [tri giác] nắm lấy cái đúng thật hay nắm lấy sự vật như chúng đang tồn tại trong chân lý (tức cái phổ biến), và rút động từ này (wahrnehmen/tri giác), từ wahr (đúng thật/chân lý) và nehmen (nắm lấy). Nhưng suy diễn này là không đúng: wahr- trong wahrnehmen không có quan hệ từ nguyên với wahr (đúng thật/chân lý) nhưng có quan hệ với chữ aware (có ý thức) trong tiếng Anh.

Khó khăn trung tâm trong tư tưởng của Hegel là ở điều này: phải chăng ông, giống như Kant, tin rằng thế giới và kinh nghiệm của ta về thế giới chứa đựng một yếu tố cảm tính không thể quy giản vào tư tưởng hoặc được rút ra từ tư tưởng? Có một số lý do để nghĩ rằng ông không tin như thế: (1) Ông thường xuyên công kích học thuyết nhị nguyên của Kant. (2) thần học tương ứng với hệ thống của ông chứa đựng việc Thượng Đế sáng tạo thế giới từ hư vô, chứ không như trong tư tưởng Hy Lạp và Do Thái giáo thời đầu, là sự tạo hình cho một sự hỗn độn nguyên thủy; điều này hàm ý rằng tư tưởng thuần túy không cần bổ sung bằng cái cảm tính hay chất liệu nào hết. (3) Ta không thể rút ra một yếu tố cảm tính thô, không bị tiêm nhiễm bởi khái niệm (HTHTT I), hoặc một nhân tố vật chất thuần túy vô HÌNH THỨC được. Tuy nhiên, Hegel không đơn giản cho rằng tư tưởng và cái cảm tính (hay hình thức và CHÂT LIỆU) là bện chặt vào nhau không gỡ ra được: Lô-gíc học nỗ lực tách tư tưởng (và cái hình thức liên quan) ra khỏi cái cảm giác (và cái chất liệu liên quan). Câu hỏi làm thế nào tư tưởng thuần túy quan hệ được với cái cảm tính (hay với Tự NHIÊN) không được ông trả lời thỏa mãn. (Sự thật là, việc một yếu tố thuần túy cảm tính không thể được rút ra một cách độc lập với tư tưởng không có nghĩa rằng không có một yếu tố như thế).

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển triết học Kant

Tri giác [Đức: Wahrnehmung; Anh: perception]

Xem thêm: Dự đoán của trỉ giác (các), Nhận thức, Trực quan, Phán đoán, tư tưởng,

Các tri giác được mô tả rất nhiều chỗ trong PPLTTT như là những hiện tượng “được nối kết với ý thức” (A 120), “những biểu tượng đi kèm với cảm giác” (B 147) và các cảm giác “được ta ý thức” (A 255/B 272). Chúng được mô tả như là “những trực quan thường nghiệm” hay “những trực quan thường nghiệm có mặt trực tiếp trong không gian và thời gian, thông qua cảm giác” (B 147) cũng như là “ý thức thường nghiệm” hay một “ý thức trong đó đồng thời là [chứa đựng] cảm giác” (A 166/ B 207). Do đó, các tri giác hiện diện trong cả cảm giác lẫn ý thức, tức là một tính nước đôi đảm bảo cho khả thể của kinh nghiệm bằng cách cho phép sự phân biệt giữa ý thức và cảm năng được quan sát và được treo lửng. Vì nếu các tri giác chỉ là cảm tính thôi, thì chúng không thể được các phạm trù sắp xếp; nhưng nếu chúng được sản sinh một cách riêng biệt bởi ý thức thì chúng không thể có mối quan hệ nào với các đối tượng của giác quan. Kết quả là tri giác cũng đứng trong một quan hệ phức tạp với các mô thức của trực quan: không gian và thời gian. Những mô thức này “có sẵn nổi ta như là những mô thức của trực quan cảm tính của ta, trước khi một đối tượng hiện thực quy định giác quan của ta thông qua cảm giác để hình dung nó trong các quan hệ cảm tính”, nhưng đối với chúng, để hình dung đối tượng này, bản thân chúng phải “tiền giả định tri giác” (A 373). Trong trường hợp này, cho dù chúng đi trước một đối tượng, thì những mô thức trực quan lại tiền giả định tri giác hay “thực tại của một cái gì đó trong không gian” (A 373).

Đinh Hồng Phúc dịch

Dự đoán của tri giác (những) [Đức: Antizipationen der Wahrnehmung; Anh: anticipations of perception]

Xem thêm: Loại suy của kinh nghiệm (những); Tiên đề của trực quan (các), Định đề của Tư duy thường nghiệm (các), Nguyên tắc (các), Thực tạỉ (tính),

Các dự đoán của tri giác là các nguyên tắc tưong ứng với các phạm trù về chất. Cùng với các tiên đề của trực quan tưong ứng với các phạm trù về lượng, chúng tạo thành hai nhóm “các nguyên tắc toán học” được bổ sung bằng “các nguyên tắc động lực học” của các loại suy của kinh nghiệm (tưong ứng với các phạm trù về tưong quan) và các định đề của tư duy thường nghiệm (tương ứng với các phạm trù về tình thái). Nhìn chung, các nguyên tắc ấy xác định việc các hiện tượng sẽ xuất hiện ra như thế nào cho trực quan cảm tính của một hữu thể hữu hạn không có năng lực trực quan trực tiếp mang tính phạm trù (categorical) [tức con người chúng ta]. Các dự đoán của tri giác xác định chất của các hiện tượng cho một hữu thể như thế, tức là xác định Thực tại, sự Phủ định, và sự Hạn định của các hiện tượng trong không gian và thời gian.

Kant khẳng định rằng chất của các hiện tượng đòi hỏi chúng phải có một “lượng cường độ”: “Trong mọi hiện tượng, cái thực tồn (das Reale) là đối tượng của cảm giác, đều có một lượng cường độ, tức là một độ (Grad)” (PPTTTT B 207). Trong ấn bản A của PPTTTT, Kant xác định rõ nguyên tắc này như “đưa ra dự đoán về mọi hiện tượng” và mô tả “cái thực tồn” như cái gì tương ứng với cảm giác về đối tượng. Cả hai ấn bản đều nhất trí rằng cái thực tồn tương ứng với đối tượng của giác quan sở hữu một lượng cường độ: đối với chúng ta, việc tri giác các hiện tượng là không có thể có được nếu chúng không có một lượng cường độ.

Kant sử dụng từ “dự đoán” để dịch thuật ngữ prolepsis của Epicurrus, từ này biểu thị một sự quan niệm-trước cho phép có sự tri giác. Kant xem giác tính như quan năng “đưa ra (dự đoán) mệnh đề tổng hợp như thế về độ của mọi thực tại trong hiện tượng” (PPTTTT A 175/ B 217), phân biệt giữa các chất tùy thể của một hành vi thường nghiệm của cảm giác - “màu sắc, mùi vị, v.v” - với sự dự đoán rằng mỗi cảm giác sẽ có một độ của thực tại. Đây là chất duy nhất có thể được giả định một cách tiên nghiệm, và là cơ sở cho việc xác định bất kỳ chất thường nghiệm nào khác về sau. Kant minh họa điểm này bằng các ví dụ về các chất thường nghiệm như màu sắc, sức nóng, trọng lượng (A 169/ B 211). Một điều kiện cho việc tri giác mỗi một chất này là nó phải có một độ của thực tại, tuy nhiên độ này có thể giảm dần đến vô tận. Trong trường hợp màu sắc, khi màu đỏ dần dần tiến đến điểm zero của thực tại thì nó vẫn là màu đỏ; nhưng khi nó đạt được độ zero của thực tại thì nó thôi không còn có chất màu đỏ, vì chất này là vô nghĩa nếu nó không thể được dự báo là có một độ của thực tại nào đó.

Vậy là, cảm giác có một độ của thực tại, và như thế nó có đại lượng. Nhưng đây không phải là đại lượng trương độ hay đại lượng quảng tính (extensive magnitude) của các tiên đề của trực quan được sinh ra từ “sự tổng hợp tiếp diễn” của trí tưởng tượng trong không gian và thời gian, mà là một sự tổng hợp trong khoảnh khắc “được phát sinh trong hành vi của sự lĩnh hội” (PLLTTT A 167/ B 209). Nó dự đoán cảm giác và sự tổng hợp trực quan, không gian-thời gian của nó.

Không có sự dự đoán này, hẳn có thể ấp ủ khả thể cho việc tri giác các đối tượng không có thực, tức những tri giác mà Kant xem là không thể có được đối với một hữu thể hữu hạn như con người. Thực vậy, với Kant, việc tri giác sự khiếm diện của thực tại bằng trực quan cảm tính là một mâu thuẫn về thuật ngữ (contradiction in terms). Một đối tượng của trực quan cảm tính phải có một độ của thực tại, vì nếu không như thế, nó không thể là một đối tượng của trực quan cảm tính. Nói cách khác, và phù hợp với “các nguyên tắc chung” của bốn nhóm các nguyên tắc, điều kiện cho kinh nghiệm cũng là điêu kiện cho đối tượng của kinh nghiệm.

Những sự dự đoán này có thể được lý giải như nguyên tắc nền tảng nhất của các nguyên tắc. Chúng vẽ biểu đồ của “tính được mang lại” của cái hiện tồn thậm chí là trước cả các mô thức của trực quan, vì theo cách nói của cuốn SL, bên dưới những sự dự đoán này “cảm giác không phải là một trực quan chứa dựng không gian hoặc thời gian, mặc dù nó thiết định [setzt] đối tượng này tương ứng với cảm giác trong cả không gian và thời gian” (SL §24). Chính Kant đã thấy rằng ý tưởng về một sự thiết định có trước-trực quan là gây rối rắm: nó “làm cho nhà nghiên cứu, tuy đã bắt đầu quen và quan tâm hơn đến triết học siêu nghiệm, không khỏi có ít nhiều kinh ngạc và thắc mắc” (PPLTTT A 175/ B 217). Tuy nhiên, sự phân tích về việc thiết định này đã được Fichte theo đuổi một cách có hệ thống, ông đã tiến hành xác lập khoa học về nhận thức dựa trên một hành vi tiên khởi của việc thiết định. Nó cũng được trường phái hiện tượng học xem xét, trường phái này, thông qua sự quy giản bản chất (eidetic reduction), đã tìm cách mô tả tính được mang lại của các hiện tượng (xem Husserl, 1913, và sự lý giải hiện tượng học về các dự đoán nơi Heidegger, 1935, tr. 206-224).

Mai Sơn dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Wahrnehmung /í =, -en/

1. [sự] phân biệt, nhận biét, tiếp thu, lĩnh hội, cảm thụ, quan sát, cảm thây; 2. (quân sự) [sự] tiếp nhận tin túc; kết quả quan sát; 3. [sự] tuân thủ, tuân theo, nghiêm thủ.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Wahrnehmung

[VI] Tri giác

[DE] Wahrnehmung

[EN] perception

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Wahrnehmung

notice

Wahrnehmung

perception

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Wahrnehmung /f/C_THÁI/

[EN] cognition, perception

[VI] sự nhận thức

Wahrnehmung /f/TTN_TẠO/

[EN] perception

[VI] sự nhận thức, sự tri giác

Metzler Lexikon Philosophie

Wahrnehmung

Man unterscheidet verschiedene Formen: W. durch unser Sensorium (sinnliche W., äußere Erfahrung), ästhetische W. oder begrifflich-geistige (innere) W. Im Alltagsgebrauch oder common sense-Verständnis nehmen wir die Dinge, äußere, bewusstseinstranszendente Phänomene, unbefangen für das, als was sie uns in unseren Sinnen gegenwärtig erscheinen, nämlich für real existierend; z.B. einen Ton, den man gerade hört und dessen Vibrieren man vielleicht zusätzlich spürt; eine Farbe, die man sieht; das Tintenfass vor ihm auf dem Schreibtisch, an dessen Wirklichkeit G. E. Moore keinen vernünftigen Grund zu zweifeln fand. Findet man diesen Ton, diese Farbe darüber hinaus auch noch als angenehm oder schön, bezieht man zum gehörten Ton, zur sinnlich wahrgenommenen Farbe bereits Stellung in ästhetischer Hinsicht. Insofern ist in ästhetischer W. eine sinnliche W. als deren Voraussetzung eingeschlossen. – Soll ästhetische W. auf den Begriff gebracht werden, bedarf es nichtsinnlicher, geistiger W. als Beurteilungskriterium von »Schönheit« oder »Kunst«. Diese Einteilung ist der abendländischen Tradition seit Aristoteles entnommen. Dieser traf die Unterscheidung in sog. sinnliche W. (aisthesis, sensus) und geistige W. (noesis, intellectus, einsichtiges Erfassen). Erstere ist, da in ihr die materialen sinnfälligen Dinge unmittelbar empirisch gegeben sind, Grundlage der zweiten, in welcher diese mit Hilfe der Vorstellung (phantasia) in ihrer intelligiblen Form und ihrem Wesen (ohne ihre Materie) erfasst werden. Die Vorstellung ist dabei dasjenige Medium, welches das Wahrgenommene in seiner qualitativen, nicht mehr in seiner stofflichen Natur, unabhängig von seiner tatsächlichen Präsenz oder Existenz, in sich aufnimmt und der geistigen W. zur (passiven) Rezeption und (aktiven, reflexiven) Apperzeption präsentiert. – Das alltägliche und ursprüngliche Verständnis von W. als direktes Präsenthaben von etwas durch die Sinne geht ein in wissenschaftliche Untersuchungen der W. Wird primär die Gegenstandsseite, das Gegenüber der W., so wie es sich den Sinnen darstellt, als »objektiv« angenommen, kann man von W. in noch naiver, naturalistischer Einstellung (Husserl) sprechen. In philosophischer Einstellung versteht man unter W. das Ereignis des Gewahrwerdens und den (mentalen) Zustand des Fürwahrhaltens und Einsehens von etwas. W. weist somit generell zwei intentionale Pole auf, die bewusste Fremd-Beziehung auf etwas als ihr Objekt und die gleichzeitig damit einhergehende Selbst-Beziehung (Aristoteles; Thomas v. Aquin). Eine Theorie der W. hat demgemäß beide Bezugsrichtungen zu eruieren. Je nachdem, welchem Pol der W. der Primat seiner Untersuchung gilt, kann man von eher gegenstandstheoretischer W.s-Psychologie respektive von Phänomenologie der W. selbst sprechen. – In der heutigen empirischen, experimentellen W.s-Psychologie werden insbesondere Aufbau, Prozesse und Leistungen sinnesphysiologischer (z.B. auditiver, akustischer, haptisch-taktiler) Systeme in Hinsicht auf das Wahrgenommene untersucht. Dabei gelten Sinnesdaten, Empfindungen, Vorstellungen und Gedächtnisinhalte nicht als isoliert gedachte Faktoren, sondern als das komplexe Ganze des Wahrnehmungserlebnisses konstituierende subsystemartige, leistungsfähige Teilinhalte. Sie bilden die Grundlage dafür, dass etwas (ein außerpsychischer Gegenstand) als sinnvoll, geordnet und gestalthaft erscheint. Stimmungslagen, Interessen, Erwartungen, Aufmerksamkeit sind Faktoren, die den Wahrnehmungsprozess von etwas spezifisch ausrichten und »färben« können. – Während bei der (nicht introspektiven) W.s-Psychologie die Erforschung des phänomenal Wahrgenommenen im Vordergrund steht, wird in der philosophischen Psychologie und Phänomenologie die Rezeptivität und Produktivität der W.s- Akte untersucht. Damit rückt, neben dem Objekt (Terminus) der W., insbesondere das Subjekt (Fundament) der W. in den Vordergrund. W. selbst zeigt sich introspektiv (im Sinne von Selbst-W., nicht von Selbst-Beobachtung) als komplexes Phänomen, denn sie weist intentional auf etwas außer sich als ihrem (primären) Gegenstand hin und hat sich zugleich selbst zum (sekundären) Gegenstand. Der außerpsychische Gegenstand der W. kann, muss aber nicht existieren. In phänomenologischer Einstellung kann (Brentano, Meinong), bzw. muss (Husserl) von ihm in Epoché abgesehen werden, nicht aber vom erlebten Inhalt bzw. dem immanentem Objekt oder dem inneren Gegenstand bzw. dem einwohnenden Datum der (inneren) W., dem Wahrgenommenen oder Gedachten als solchem, das den »äußeren« Gegenstand repräsentiert. Nach Meinongs gegenstandstheoretischer Version ist es nicht der wirkliche Kirchturm, über dessen Dasein uns die innere W. Auskunft gibt, sondern nur der »vorgestellte Kirchturm«. Wenngleich strittig bleibt, ob dieser Kirchturm als lediglich vorgestellter (und damit nicht real, sondern modifiziert) präsent ist (Meinong) oder ob eine reale Kirchturmvorstellung als Grundlage der inneren W. fungiert (Brentano) oder ob es sich dabei um ein ideales Datum am Horizont des Mitgemeinten handelt (Husserl), so ist doch jedesmal die Hereinnahme eines Objekts durch seine ursprüngliche Vorstellung ins Psychische, den Kompetenzbereich der inneren W., konstatiert; desweiteren, dass eine Vorstellungstätigkeit als fundierendes Moment der W. generell wahrnehmungsimplizit ist und die ihrer selbst bewusste innere W. dies wiederum verbürgt. – Dieser immanente Inhalt der W. kann weiter analysiert werden nach den Weisen, wie er der W. gegeben ist. Die Gegebenheitsweisen in der W. werden im Moment des Erfassens evident erlebt; als solche können sie kategorisiert und deskribiert werden. W. kann mithin als mit dem Wahrgenommenen gleichzeitiges, evidentes, urteilsartiges, für-wahr-nehmendes Ereignis in strengem Sinn des Wortes charakterisiert werden.

Die W. dieser höheren Denkvorgänge wurden besonders durch die Würzburger Denkpsychologie introspektiv erfasst, experimentell bestätigt und schriftlich fixiert. Nach Husserl greift dieser Ansatz zu kurz. Eine wissenschaftliche Psychologie der W. habe deren Leistungscharakter nicht durch experimentelle und psychophysische und sonstige Außenpsychologie, sondern qua intentionaler Innenpsychologie in ihrem apriorischen Wesen universal (die Allheit möglichen Bewusstseins überhaupt, bezogen auf die Allheit möglicher Gegenstände überhaupt) zu eruieren. Weist Husserl jede herkömmliche, natürlich-naive, positive W.s- Auffassung strikt ab, so wird alle introspektive W.s- Psychologie durch Watsons Behaviorismus, der sich wieder dezidiert als naturwissenschaftlicher Ansatz versteht, als unbeweisbar radikal zurückgewiesen. Seit der neueren sog. Kognitiven Wende (Th. A. Ryan u. a.) gegen den Behaviorismus unterliegen Untersuchungen des W.s-Prozesses innerhalb der Psychologie nicht mehr dem Verdikt der Unwissenschaftlichkeit. In der neueren Philosophie des Geistes wird W. in der Bedeutung referentiellen, propositionalen und selbstreferentiellen Wissens verwendet.

WB

LIT:

  • Aristoteles: De Anima III
  • Thomas von Aquin: Sentencia libri de sensu et sensato. (Aristoteleskommentar). In: Opera omnia. XLV, 2. Rom/Paris 1985
  • H. Bergmann: Evidenz der inneren Wahrnehmung. Halle 1908
  • F. Brentano: Psychologie vom empirischen Standpunkt. Hamburg 1973
  • Ders.: Untersuchungen zur Sinnespsychologie. Hamburg 21979
  • D. Hume: Eine Untersuchung ber den menschlichen Verstand. 4. Abschn. 2. Teil. Stuttgart 1971
  • E. Husserl: Phnomenologische Psychologie. Hua IX. Den Haag 1968
  • A. Meinong: ber Gegenstnde hherer Ordnung und deren Verhltnis zur inneren Wahrnehmung. In: Gesamtausgabe II. Graz 1971. S. 377469
  • M. Merleau-Ponty: Phnomenologie der Wahrnehmung. Berlin/New York 1966
  • Th. A. Ryan: Intentional Behavior. An Approach to Human Motivation. New York 1970
  • J. R. Watson: The Ways of Behaviorism. New York 1928.