TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

wesen

Bản Chất

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL

tính tình

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tư chất

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sinh vật

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tạo vật

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nghề

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nghề nghiệp

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Căn Tính

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Bản chất

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Yếu tính

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

thực chắt

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bản thể

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nội dung cơ bản

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tính nét

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tính chất

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngưòi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

vật

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tôn tại

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

sinh tồn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thực tồn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

: viel ~ machen aus fm

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

aus etw.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

um j-n

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

um etw. làm rùm beng về việc gì

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

làm ầm ĩ nhân chuyên gì

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

khua chuông gióng trống về vấn đề gì

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đặc tính

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

đặc điểm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nét đặc sắc

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

bản tính

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tính nết

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

bản chất con người

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

con người

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

việc làm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

bản chất/yếu tính

 
Từ điển triết học HEGEL

yếu tính

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

wesen

essence

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

real content

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Đức

wesen

Wesen

 
Metzler Lexikon Philosophie
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ein freundliches Wesen haben

có bản tính vui vẻ

das Wesen der Dinge

bản chất của sự vật.

es war kein menschliches Wesen zu sehen

không thấy một bóng người, không thấy ai.

das höchste Wesen

Thượng Đế

sie glaubten nicht an ein höheres Wesen

họ không tin vào một sinh vật siêu đẳng.

sie ist ein stilles Wesen

cô ấy là một người lặng lẽ.

sein Wesen treiben

quậy phá, nghịch ngợm

kein Wesen [von ẹtw.] machen (ugs.)

không đánh giá cao (điều gì).

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

das gehört zum Wesen des Militärischen

đây thuộc ngành quân sự; 6.:

viel Wesen (s) machen aus [mit, von] fm, aus [mit,

von] etw. (D), um j-n, um etw. (A)

Từ điển triết học HEGEL

Bản chất/Yếu tính [Đức: Wesen; Anh: essence]

Động từ tiếng Đức thời Trung đại hậu kỳ wesen (là, tồn tại) đến thời Hegel đã lỗi thời, dù vậy nó vẫn được dùng làm thì quá khứ cho động từ sein (tồn tại), nhất là quá khứ phân từ gewesen và được dùng như danh từ das Wesen. Những nghĩa quan trọng nhất của Wesen là: 1) tồn tại, tạo vật hay thực thể, đặc biệt là một sinh thể (chẳng hạn “Thượng Đế là một Wesen (hữu thể) tối cao”, “Con người là một Wesen (tồn tại) hữu hạn”; 2) Bản chất, bản tính hay tính chất của một thực thể cá biệt, tức việc nó tồn tại thế này hay thế kia (Sosein) tương phản với sự HIỆN HỮU của nó (Dasein); 3) Bản tính thường hằng, nổi trội của một sự vật, nằm bên dưới những trạng thái bên ngoài hay HIỆN TƯỢNG (Erscheinung) của nó; 4) Bản tính hiện thực hay bản tính bản chất của một sự vật, tương phản với việc nó có vẻ như thế nào hay với vẻ ngoài (Schein) của nó; 5) Những đặc tính bản chất hay PHỔ BIẾN của một nhóm các thực thể, tương phản với những biến thể cá biệt của chúng; 6) nằm trong những từ ghép [chỉ một hệ thống hay một phức hợp] như Postwesen (“ngành bưu điện” hay “hệ thống bưu điện”). (Hegel cho rằng nghĩa này của chữ Wesen là gần với nghĩa ông dùng, bởi nó hàm ý rằng sự vật phải được xem như một phức hợp và nằm trong “những quan hệ đa dạng [và công khai] của chúng”, BKTI, §112A).

Wesen làm phát sinh tính từ wesentlich (có tính bản chất), tương phản với unwesentlich (không [có tính] bản chất), và những chữ này có thể tạo ra danh từ Wesenheit/Anh: “essentiality” (tính bản chất), tức cái tạo nên bản chất của một sự vật, tương phản với Wesentlichkeit/Anh: “essentialness”, tức tính chất của việc là bản chất. Hegel dùng danh từ số nhiều Wesenheiten (những tính bản chất) như chữ tương đương với Reflexionsbestimmungen (những quy định phản tư), tức những sự quy định tạo nên bản chất của sự vật do sự phản tư tạo ra và/hoặc sự phản tư có thể tiếp cận được, đây là phần được bàn đến trong Học thuyết về Bản chất, phần II của cuốn KHLG.

Trong HTHTT, bản chất được bàn trong chương III mục Ý THỨC (HTHTT, III), trong phần này, bản chất là cái đối ứng với GIÁC TÍNH. Trong nghiên cứu đầy đủ hơn của Lô-gíc học, nhất là KHLG, “Bản chất”, cũng như “TỒN TẠI” có một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp: nó vừa bao quát mọi khái niệm hay mọi quy định phản tư trong Học thuyết về Bản chất, vừa chỉ những quy định đầu tiên và chung nhất trong những quy định này Sự quá độ từ Tồn tại (theo nghĩa rộng) sang Bản chất (theo nghĩa hẹp) là: trong Học thuyết về Tồn tại, ta đã gặp các CHÂT, các LƯỢNG và sự tác động qua lại phức hợp giữa chất và lượng trong HẠN ĐỘ. Những sự quy định ấy và những biến đổi của chúng là TRựC TIẾP, theo nghĩa chúng không được xem như thuộc về một thực thể duy nhất (Wesen) hay có thể giải thích được bằng một bản chất (Wesen) bền vững nằm bên dưới. Lý do rõ ràng để Hegel đi đến Wesen là ở chỗ sự quy thoái VÔ HẠN tồi của những biến thể của lượng, bị ngắt quãng do sự thay đổi của chất, đã dọn đường cho sự biến đổi lẫn nhau một cách vô hạn đúng thật của chất và lượng vào trong nhau, làm phát sinh một thể nền hay Cổ chất (subtratum), vừa không phải chất cũng không phải lượng [tức: hạn độ]. Tuy vậy, còn có những lý do khác nằm bên dưới niềm tin của Hegel: 1) Cái Tôi hay CHỦ THỂ đòi hỏi một ĐỐI TƯỢNG tách biệt với nó, và tính đối tượng ấy đòi hỏi phải chiếm hữu các chất và các lượng bằng một thực thể tư ổng đối bền vững. 2) Việc một thực thể sở hữu những đặc tính khả biến và đa dạng đến lượt nó đòi hỏi các đặc tính và sự gắn kết của chúng với nhau phải được giải thích bằng bản chất của thực thể ấy. 3) Bản thân chủ thể phải là cái gì nhiều hon tổng số các đặc tính khả biến ấy, nếu nó muốn có ý thức về chúng hoặc về chính mình: nó phải là một thực thể bền vững nằm bên dưới những trạng thái biến đổi của nó. (Một lý do khiến Hegel lược bỏ những lập luận như trên là việc ông tin rằng lượng, chất và hạn độ vượt bỏ chính chúng để thành bản chất, và bản chất không phải được du nhập một cách đon giản bằng “sự phản tư bên ngoài” của ta để giải quyết những vấn đề mà chúng gợi ra).

Bản chất (Wesen) của một vật, xét như cái có tính bản chất, thoạt đầu tưong phản với cái không-bản chất, tức những đặc tính bề mặt trực tiếp, nghĩa là với cái trước đó là Sein (tồn tại). Nhưng cặp đôi thuật ngữ này là không thích đáng, vì cái bản chất phụ thuộc vào cái tưong phản với nó là cái không-bản chất không khác gì cái không-bản chất phụ thuộc vào cái bản chất, và cũng vì, như hệ luận của điều này, để đặc trưng hóa cho một trong hai thuật ngữ này, chứ không phải thuật ngữ khác, xét như cái có bản chất, đòi hỏi phải có một người quan sát bên ngoài. (Những lập luận của Hegel ở đây, và trong Học thuyết về Bản chất nói chung, là tương tự với những lập luận của ông về cái Tuyệt đối).

Kế đến, bản chất (Wesen) được đặt tương phản với vẻ ngoài (Schein). Cái vốn trước đó là tồn tại (Sein) đã trở thành một bản chất (Wesen) đơn giản, vô-quy định: Tồn tại HỐI TƯỞNG hay nội tâm hóa chính mình thành bản chất. (Ở đây Hegel nhấn mạnh mối liên hệ của Wesen với quá khứ: “Bản chất là tồn tại đã qua (vergangene), nhưng là đã qua một cách phi thời gian”). Nhưng, cái trước đây là tồn tại (Sein), tức những đặc tính bề mặt trực tiếp, vẫn duy trì bền bỉ như là vẻ ngoài (Schein), tức những đặc tính bề ngoài được TRUNG GIỚI bởi hoạt động của bản chất. Bản chất (Wesen) và vẻ ngoài (Schein) lúc này có một mối quan hệ khác với mối quan hệ của sự tương phản đơn thuần hay với “cái khác”, vẻ ngoài (Schein) được phát sinh bởi sự xuất hiện ra (scheinen) của bản chất. Nhưng Schein và Scheinen, giống như khái niệm về sự PHẢN TƯ được du nhập muộn hơn trong phần này, là hàm hồ nước đôi.

1. Chúng liên hệ với vẻ ngoài, bề ngoài và ảo tượng, với những gì xuất hiện ra hay tỏ vẻ ra cho người quan sát. Nhưng, người quan sát không chỉ ý thức về vẻ ngoài (Schein) mà còn ý thức về bản chất (Wesen): tư tưởng của người ấy phản chiếu ngược từ vẻ ngoài vào (hay tới) bản chất ngay tại nguồn cội của nó. Vì thế, bản chất đi từ sự thống trị của vẻ ngoài đến chỗ cân bằng với nó: nó đạt được tính quy định mặc nhiên, ngược lại với tính đơn giản khi nó mới bắt đầu, và, trong chừng mực đó, là sản phẩm của tinh thần con người như là Schein (vẻ ngoài) (theo một số nhà DUY TÂM).

2. Chúng lại liên hệ với sự chiếu sáng của ánh sáng. Ý niệm về một nguồn ánh sáng đơn giản, bền bỉ mở rộng thành vô số tia sáng rất vừa vặn với ý niệm về một bản chất đơn giản nhưng tạo ra vô số những đặc tính bề mặt. Ánh tượng (Schein), theo mô hình này, là sản phẩm của chính bản chất, chứ không đơn giản là sản phẩm của người quan sát bên ngoài: bản chất ánh hiện (scheinen/Anh: schines) [thành vẻ ngoài] ở trong chính mình. Nhưng, nó cũng ánh hiện [vào trong] chính mình. Vì, ánh sáng, khi nó chạm vào một bề mặt, được phản chiếu ngược trở lại nguồn sáng.

Vì thế, Wesen và Schein đi đến chỗ có quan hệ hỗ tương bằng sự phản chiếu/ánh hiện, cái này ánh hiện thành/vào trong cái kia. Cũng theo cách này, Wesen trở nên được quy định như Schein mà nó tạo ra, chứa đựng TRONG CHÍNH MÌNH mọi sự đa dạng mà nó cần giải thích.

Những quy định phản tư khác là những sự phát triển của khái niệm “bản chất”. Chẳng hạn, sự ĐỒNG NHẤT rút ra từ sự tự-đồng nhất của bản chất, và sự KHÁC BIỆT là từ sự tự-dị biệt hóa thành Schein. Những sự quy định này, không giống những sự quy định của Tồn tại, tạo nên những cặp đôi (chẳng hạn đồng nhất và khác biệt), những hạn từ của chúng liên hệ với nhau bởi sự ánh hiện (scheinen) vào trong nhau. Hegel đặt tương phản việc “ánh hiện” như thế với việc “chuyển sang nhau” hay “quá độ” vốn là đặc điểm của Tồn tại cũng như tương phản với sự PHÁT TRIỂN những sự quy định của KHÁI NIỆM. Nhưng ông cũng nói về sự phát triển của bản chất (và của tồn tại) xét như cái toàn bộ [thể hiện trong từng phần: Học thuyết về Tôn tại và Học thuyết về Bản chất. N.D]. Sự phát triển này đi từ bản chất được quan niệm như một thể nền bị ẩn giấu sang bản chất như là cấu trúc lô-gíc minh nhiên và tính quan hệ qua lại của các hiện tượng, nghĩa là, từ bản chất chỉ đơn thuần ánh hiện bằng cách xuất hiện ra thành hiện tượng (Erscheinung), đến HIỆN THựC có trật tự và gắn kết.

Ta vẫn không hoàn toàn rõ Hegel muốn nói gì khi nối kết Wesen với (thì) quá khứ:

1) Ông chắc không có chung quan niệm với Sartre, trong Baudelaire (1947): “cái Tôi đang là” chính là “cái Tôi đã là”, vì tự do hiện tại của tôi luôn đặt vấn đề về bản tính mà tôi đã sở đắc”. Theo quan niệm của Hegel, tôi thực sự siêu vượt hay VƯỢT BỎ những trạng thái quá khứ của tôi, nhưng tôi không làm vậy với sự Tự DO CHỦ QUAN như Sartre đã nghĩ, và tôi cũng không (thể) siêu vượt bản chất chung của tôi như một cái Tôi hay một tồn tại có tư duy.

2) Thường thì điểm này có vẻ nói rằng bản chất của cái gì đó xuất hiện ra (trong thời gian, bên ngoài Lô-gíc học) từ (những) trạng thái quá khứ của nó và không minh nhiên ngay từ ban đầu: chẳng hạn, “bằng sự phản tư-vào-trong-chính mình, TINH THẨN hoàn tất sự giải phóng chính mình khỏi hình thức tồn tại đơn thuần [của “LINH HỒN tự nhiên”], mang lại cho mình hình thức của bản chất và trở thành cái Tôi” (BKTIII, §412A).

3) Đôi lúc, điểm này có vẻ cho rằng bản chất của một thực thể hiện tại là toàn bộ tiến trình quá khứ mà nó là kết quả: “mỗi cọng cỏ, mỗi cái cây đều có... LỊCH sử của nó... Điều này càng đúng hơn trong lĩnh vực của TINH THẨN; như tinh thần hiện thực trong hiện tượng của mình, nó chỉ có thể được mô tả một cách cạn kiệt... như một diễn trình lịch sử” (MH). (Điều này gần với quan niệm của Nietzsche trong định nghĩa về TRỪNG PHẠT).

Những hàm hồ nước đôi của bản chất và những từ liên quan với nó, cũng như tính tổng quát bên trong đối với Lô-gíc học, có nghĩa là Hegel không chỉ quan tâm đến một cách sử dụng duy nhất về chữ “bản chất”, mà đến toàn bộ dãy nghĩa của nó trong thần học, siêu hình học, khoa học thường nghiệm, và trong lời nói thông thường.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Wesen /fve:zan], das; -s, -/

(o PI ) đặc tính; đặc điểm; nét đặc sắc (Art, Charak ter);

Wesen /fve:zan], das; -s, -/

(Philos ) bản chất; bản tính; tính tình; tính nết; tư chất;

ein freundliches Wesen haben : có bản tính vui vẻ das Wesen der Dinge : bản chất của sự vật.

Wesen /fve:zan], das; -s, -/

(o Pl ) bản chất con người;

es war kein menschliches Wesen zu sehen : không thấy một bóng người, không thấy ai.

Wesen /fve:zan], das; -s, -/

sinh vật; tạo vật;

das höchste Wesen : Thượng Đế sie glaubten nicht an ein höheres Wesen : họ không tin vào một sinh vật siêu đẳng.

Wesen /fve:zan], das; -s, -/

con người (Mensch);

sie ist ein stilles Wesen : cô ấy là một người lặng lẽ.

Wesen /fve:zan], das; -s, -/

(o PI ) (veraltet) nghề; nghề nghiệp; việc làm;

sein Wesen treiben : quậy phá, nghịch ngợm kein Wesen [von ẹtw.] machen (ugs.) : không đánh giá cao (điều gì).

Từ điển triết học Kant

Bản chất [Hy Lạp: ousia; Latinh: essentia; Đức: Wesen; Anh: essence]

Xem thêm: Tùy thể, Định nghĩa (sự), Hiện hữu (sự), Mô thức, Chất liệu, Tự nhiên, Bản thể, Tổng hợp (sự),

Theo nghĩa cổ điển, bản chất là cái cấu thành bản tính riêng của sự vật và là cái được mang lại trong định nghĩa về nó. Quan niệm về “bản chất” được Aristoteles phát triển trong Siêu hình học (Metaphysics) như là bộ phận của câu trả lời cho câu hỏi “một sự vật là cái gì?” Khi định nghĩa về một sự vật, bản chất được phân biệt với các tùy thể và bản thể: các tùy thể luôn luôn được đặt làm thuộc từ cho một chủ từ và chỉ đóng vai trò là xác định tính chất cho một bản chất (Aristoteles, 1941, 1007b, 1-15), trong khi bản thể lại biểu thị sự vật là cái đó chứ không biểu thị sự vật là gì. Do đó, bản chất xác định “giống của một loài” hay đặc tính riêng có của nó (1030a). Aquinas làm rõ những điểm này khi ông bàn về bản chất như là một chức năng của sự kết hợp giữa chất thể và mô thức. Định nghĩa về bản chất không phải là định nghĩa theo mô thức, không tách khỏi chất thể, cũng không phải là định nghĩa theo chất thể và không được rút ra từ “việc cá biệt hóa chất thể”. Khi lấy ví dụ về bản chất của “con người”, Aquinas nói rằng bản chất này không phải “mô thức” của con người, cũng không phải “thịt, xương và các tùy thể nói lên chất thể này” mà đúng hơn là “thành tố có tính mô thức trong quan hệ với chất thể được cá biệt hóa” (Aquinas, 1952, 1, 3, 3, chữ in nghiêng là nhấn mạnh của soạn giả, không phải của Aquinas).

Một trong những tác động của định nghĩa của Aristoteles về bản chất là sự xuất hiện của một mối quan hệ nước đôi giữa bản chất và sự hiện hữu. Với tư cách là một chức năng của quan hệ giữa mô thức và chất thể, bản chất không hoàn toàn có tính hình thức, tách biệt với sự hiện hữu, cũng không thuần túy có tính chất thể, được đồng nhất với sự hiện hữu. Với Descartes, và theo sau ông là Spinoza, tính nước đôi này được biến thành một sự đối lập giữa cái có thể được quan niệm với cái đang hiện hữu. Vì thế, trong “Suy niệm thứ năm”, Descartes gán bản chất cho những đối tượng khả hữu, cho dù những đối tượng này có thể không hiện hữu, đây là một điểm mà ông đã nhấn mạnh trong Các đối thoại với Burman, trong đó ông tuyên bố rằng đối tượng của vật lý học là “cái gì đang thực sự hiện hữu về mặt vật lý”, trong khi đối tượng của toán học “xét đối tượng của nó chỉ đon thuần là khả hữu” (Descartes, 1976, tr.23). Việc biến bản chất thành khả thể đã được Wolff và trường phái của ông hệ thống hóa; đối với họ, bản chất được định nghĩa là khả thể đon giản (chẳng hạn - “Bản chất của một sự vật là khả thể của nó”, Meissner, 1737, mục từ Wesen). Chính từ truyền thống này, Kant đã xây dựng quan niệm của mình về bản chất.

Trong SHHT, Kant định nghĩa bản chất theo kiểu Wolff là “nguyên tắc bên trong và hàng đầu của tất cả những gì thuộc về khả thể của một sự vật”, và phân biệt nó với bản tính (nature) hay “nguyên tắc bên trong và hàng đầu của tất cả những gì thuộc về sự hiện hữu của một sự vật” (tr. 467, tr. 3). Sự phân biệt này được thấm nhuần bởi yêu sách của Kant trong cuốn L rằng ta không thể nào định nghĩa “bản chất thực tôn hay bản chất tự nhiên của các sự vật” (tr. 566-567) và rằng giác tính của ta bị hạn chế vào “bản chất logic” mà thôi. Lập luận của ông được làm sáng tỏ trong lá thư đề ngày 12 tháng 5 năm 1789 gửi cho K. L. Reinhold, trong đó Kant phê phán Baumgarten và những người theo thuyết Wolff vì đã mang lại cái vị thế siêu hình học cho “sự bàn luận về bản chất, các thuộc tính, v.v...” (TT, tr. 139). Trái lại, Kant một mực cho rằng khả thể chỉ duy nhất có ý nghĩa logic. Bản chất logic hay “những thành tố” thứ nhất [primary constitutiva] của một khái niệm có thể được xác định bằng “sự phân tích các khái niệm của tôi thành tất cả những gì tôi nghĩ về chúng”, trong khi đó, “bản chất thực tồn (bản tính tự nhiên) của bất kỳ đối tượng nào, tức là Cổ sở Sổ đẳng bên trong của tất cả những gì vốn tất yếu thuộc về một sự vật được mang lại, thì con người không thể nào khám phá ra được” (TT, tr. 140). Khái niệm về chất thể sở hữu bản tính logic là quảng tính và tính bất khả thâm nhập vốn “là tất cả những gì được hàm chứa một cách tất yếu và sơ khởi trong khái niệm của tôi và của mọi người về chất thể”, trong khi bản chất thực sự của chất thể, tức “cơ nền sơ đẳng, bên trong, [tự] đầy đủ của mọi vật và nhất thiết thuộc vê chất thể, điều này vượt khỏi năng lực của các quan năng con người” (sđd). Lý do là vì có một “cơ sở cho sự tổng hợp” về bản chất “ít nhất cho con người chúng ta, đã mang chúng ta đến một chỗ để dừng lại”. Vì thế, đó chính thị là địa vị cổ điển của bản chất với tư cách là một chức năng của sự nối kết giữa mô thức và chất thể (theo cách nói của Kant là “sự tổng hợp”). Nó giới hạn nhận thức của ta về bản chất logic vào sự cấu tạo có tính tổng hợp của các hiện tượng mà thôi và nói lên rằng ta không đủ sức để có bất kỳ nhận thức nào về bản chất thực sự, thực tồn.

Trần Kỳ Đồng dịch

Bản thể [Đức: Substanz; Anh: substance] -> Tùy thể, Chủ thể Bản thể học/Hữu thể học [Đức: Ontologie; Anh: ontology]

Là một từ mới được tạo ra trong thế kỷ XVII, bản thể học nguyên được sử dụng để biểu thị “siêu hình học tổng quát” đi trước các “siêu hình học chuyên biệt” gồm vũ trụ học, tâm lý học và thần học. Theo cách nói của Wolff (1719), bản thể học liên quan đến “những Nguyên lý Đệ nhất của nhận thức và của các Sự vật Nói chung” và chuẩn bị nền tảng cho việc nhận thức về những sự vật đặc thù như thế giới, linh hồn và Thượng đế. Đối với Baumgarten, trong cuốn Metaphysica [Siêu hình học] chịu ảnh hưởng từ Wolff, bản thể học là “khoa học về các thuộc tính của sự vật nói chung” (§4). Trong suốt cuộc đời giảng dạy của mình, Kant đã giảng về Siêu hình học dựa theo các văn bản của Baumgarten, nhưng, vì các mục đích sư phạm, ông đã không đi theo thứ tự trình bày của Baumgarten bằng việc bắt đầu với môn bản thể học (hầu như chiếm phần lớn nhất trong siêu hình học của Baumgarten). Như ông giải thích trong “Thông báo vê việc tổ chức các bài giảng” vào năm 1765-1766, các bài giảng của ông về Siêu hình học bắt đầu với tâm lý học thường nghiệm, tiếp theo là vũ trụ học, và chỉ sau đó mới đến bản thể học, tâm lý học thuần lý và thần học (tr. 309, tr. 295).

Sự quan tâm về bản thể học trong các bài giảng về Siêu hình học đảm bảo rằng chúng được xếp hạng cao trong nghị trình phê phán của Kant. Thực tế, kiến trúc của cuốn PPLTTT đã báo hiệu sự phê phán đối với kiến trúc siêu hình học của trường phái Wolff, với ba đề mục của siêu hình học chuyên biệt được xét trong “Biện chứng pháp siêu nghiệm”, còn bản thể học thì ở trong “Phân tích pháp siêu nghiệm”. Kant rõ ràng đã lấy “Phân tích pháp đơn thuần về giác tính” thay chỗ cho “môn học với tên gọi rất tự hào là môn bản thể học, tự cho là chuyên mang lại những nhận thức tổng hợp tiên nghiệm về những sự vật nói chung” (PPLTTT A 247/B 303). Qua điều này, ông muốn nói rằng các nguyên tắc của phân tích pháp siêu nghiệm “chỉ là những quy tắc cho sự trình bày về các hiện tượng”, không liên quan gì đến các sự vật nói chung, trái lại, chỉ liên quan đến các đối tượng của kinh nghiệm mà thôi. Trong các văn bản sau này, Kant đơn giản xem phân tích pháp siêu nghiệm là bản thể học; vì thế, trong TBSHH, bản thể học được mô tả như “khoa học cấu thành một hệ thống của mọi khái niệm và nguyên tắc của giác tính, nhưng chỉ trong chừng mực chúng trình bày các đối tượng được mang lại bằng các giác quan và vì thế có thể được biện minh bởi kinh nghiệm” (TBSHH, tr. 260, tr. 53) hay, chứa đựng “các yếu tố của nhận thức tiên nghiệm của con người, gồm các khái niệm lẫn các nguyên tắc nền tảng” (tr. 315, tr. 161).

Bối cảnh bản thể học cho “Phân tích pháp siêu nghiệm” của cuốn PPTTTT đã được các học giả Đức như Heimsoeth (1956) và Heidegger (1929) tái phát hiện trong thế kỷ XX. Tác phẩm của họ đã tái phát hiện những phương diện trong tư tưởng của Kant vốn đã bị lãng quên trước những sự lý giải mang nặng màu sắc nhận thức luận của những nhà Kant-mới cuối thế kỷ XIX. Một ví dụ là những phương cách đa dạng mà Kant đã dùng để nói về “sự vật” hay đối tượng. Những phân biệt của Kant giữa Ding [sự vật], Objekt [Đối tượng/Khách thể] và Gegenstand [Đối tượng của tư tưởng] đã bị đánh mất trong những cách đọc theo nhận thức luận của các nhà Kant-mới, và hầu như không thể nhận ra được nữa trong bản dịch [sang tiếng Anh] kiểu Kant-mới như của Kemp Smith, trong khi tầm quan trọng riêng của chúng hẳn đã có thể được nhận ra trong những cách đọc nhạy cảm với bối cảnh bản thể học của triết học phê phán. Những cách đọc Kant theo bản thể học đã thúc đẩy việc đánh giá cao vị trí của Kant trong lịch sử triết học, cũng như đã đào sâu sự hiểu biết của ta về mối quan hệ giữa những phần khác nhau trong triết học của ông.

Trần Kỳ Đồng dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Wesen /n -s, =/

1. thực chắt, bản chất, bản thể, nội dung cơ bản; 2. tính tình, tính nét, tư chất, tính chất; 3. sinh vật, tạo vật, ngưòi, vật; 4. [sự] tôn tại, sinh tồn, thực tồn; 5. nghề, nghề nghiệp; ngành, môn, khoa; das gehört zum Wesen des Militärischen đây thuộc ngành quân sự; 6.: viel Wesen (s) machen aus [mit, von] fm, aus [mit, von] etw. (D), um j-n, um etw. (A) làm rùm beng về việc gì, làm ầm ĩ nhân chuyên gì, khua chuông gióng trống về vấn đề gì; quan tâm nhiều quá, chú ý nhiều quá.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Wesen

[VI] Bản chất; Yếu tính

[DE] Wesen

[EN] essence

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Wesen

[EN] real content, essence

[DE] Wesen

[VI] Bản Chất

[VI] tính chất căn bản

Wesen

[EN] real content; essence

[DE] Wesen

[VI] Căn Tính

[VI] tính chât căn bản

Metzler Lexikon Philosophie

Wesen

(griech. Ousia, lat. essentia). Der Begriff besitzt in der Philosophie keine festumrissene Bedeutung. Er wurde durch Meister Eckhart in die dt. philosophische Terminologie als Übersetzung für Essentia eingeführt und bedeutet, entsprechend dem althochdt. wesan, sein, das Beständige, Bleibende gegenüber dem Veränderlichen. Die abendländische Metaphysik versteht unter W. zunächst das nur geistig fassbare typische Wassein eines Seienden, seine Grundgestalt oder Form (griech. eidos, lat. species). Als korrelativer Begriff bezeichnet W. das Identisch-Bleibende im Gegensatz zur Mannigfaltigkeit der ständig wechselnden Erscheinungen und hebt damit hervor, was als notwendig und überindividuell-allgemein in einem Seienden liegt, im Gegensatz zur Vielheit der zufälligen Bestimmungen. Als wahrhaftes oder eigentliches Sein der Dinge bringt das W. die Erscheinungen hervor, trägt sie und macht sie verständlich. Das W. wird deshalb auch als dem Seienden zugrunde liegend (Hypokeimenon, Substrat, Substanz) gedacht. Man unterscheidet zwischen Eigenschaften, die einem Seienden Wesentlich, essentiell sind, und unwesentlichen, akzidentiellen Eigenschaften. – Weiterhin versteht man unter dem W. eines Seienden etwas, das erst noch verwirklicht werden muss. Das Bleibende besteht dann nicht in einer Anzahl von festen Eigenschaften, sondern in einer Tendenz bzw. Disposition (Teleologie, dynamis/energeia). Als Zweck betrachtet kommt dem W. die Bedeutung einer immanenten Norm zu, an der das Einzelseiende gemessen wird. – Die scholastische Philosophie unterscheidet das W. oder die Wesenheit als Sosein oder Essenz vom Dasein oder der Existenz. Das Dasein antwortet auf die Frage, ob ein Seiendes ist, das Sosein oder W. auf die Frage, was ein Seiendes ist. Von daher wird das W. auch als Washeit (lat. quidditas) bezeichnet. Beim endlichen Seienden beinhaltet es eine feste, ewige Möglichkeit (potentia) für die Existenz als dem Prinzip der Wesensverwirklichung (actus/potentia). – Heidegger, dessen Philosophie sich vom Gegensatz W. und Dasein unabhängig macht, bezeichnet die abendländische Philosophie seit Platon als Wesensphilosophie. Dies nicht, weil sie das Prinzip der Existenz vernachlässigt, sondern vielmehr, weil sie bei der Betrachtung des W.s und seines Unterschieds zum Seienden das Sein vergessen habe. Für Heidegger fallen W. und Dasein zusammen: »Das Wesen des Daseins liegt in seiner Existenz« (Sein und Zeit § 9). – Schließlich wird W. im Sinne von Seiendem, z.B. »dieses lebende W.«, oder als Sammelbezeichnung, z.B. »Schulwesen«, verwendet.

Während Platon die Wesenserkenntnis als Anamnese der von den Einzeldingen getrennten ewigen, unveränderlichen Ideen bestimmt, liegt für Aristoteles das W. in den Einzeldingen selbst, aus denen der allgemeine Wesensbegriff durch Abstraktion gewonnen wird. Auch Thomas v. Aquin erklärt die Wesenserkenntnis durch Abstraktion. Sie geschieht kraft des natürlichen Lichts, das es ermöglicht, das W. der Einzeldinge zu erfassen. Der Empirismus hält eine Erkenntnis unabhängig von den Sinnen für unmöglich, weshalb er das W. für unerkennbar bzw. für die Erfahrung folgenlos bestimmt. Im 20. Jh. geht die von Husserl entwickelte Phänomenologie wieder von einer Wesenserkenntnis aus. Das W. zeigt sich in der Wesensschau oder Ideation. Positivismus und Neupositivismus fragen nicht nach dem W. eines Seienden. Ihnen geht es allein um die Erscheinungen und ihre Bedingungszusammenhänge. Der Positivist M. Schlick z.B. leugnet eine Trennung der Faktenwelt von der Wesenssphäre, mit der Begründung, es gebe nur eine Wirklichkeit.

TH

LIT:

  • Aristoteles: Metaphysik VII
  • d.h. Degrood: Philosophy of Essence. Groningen 1970
  • K. Flasch: Wesen. In: Handbuch philosophischer Grundbegriffe. Bd. 6. Mnchen 1974
  • E. Gilson. Letre et lessence. Paris 1948
  • M. Heidegger. Sein und Zeit. Tbingen 151979
  • E. Husserl: Ideen zu einer reinen Phnomenologie und phnomenologischen Philosophie. Hua III/1
  • Thomas v. Aquin: De ente et essentia
  • E. Tugendhat: Ti kata tinos. Freiburg/Mnchen 31982
  • J. de Vries: Grundbegriffe der Scholastik. Darmstadt 1980.